Hôm nay,  

30 Tháng Tư: Phút Cuối Của Vị Tướng

16/04/201000:00:00(Xem: 979282)

30 Tháng Tư: Phút Cuối Của Vị Tướng

Tác giả: Phan
Bài số 2866-28116-vb6041610

Tác giả là một nhà báo tại Dallas. Ông từng phụ trách mục "Chuyện Vỉa Hè" trong Ca Dao Magazine, và hiện trong nhóm chủ biên của báo Trẻ. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt và nhận Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2007. Bài mới nhất của ông kể về “Nỗi Buồn Tháng Tư” và một đoạn hồi ký đã làm ông “tối sầm mặt mũi”: giờ phút cuối của vị Tướng tuẫn tiết chiều 30 Tháng Tư, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.

***
Ly Cà Phê Đã Lạnh!
Lâu lắm rồi, tôi mới tử tế với mình một bữa. Pha ly cà phê phin đúng điệu thuở nào. Có chén nước nóng bên ngoài ly, cho cà phê đừng nguội. Chế nước nóng vô phin cũng phải đúng cách mới ngon. Đừng đổ lấy đầy như mọi hôm vì châm phin cà phê xong là đi đánh răng, rửa mặt, trở ra vừa xong. Tiết kiệm được thời gian, nhưng ngon thì không. Đúng điệu là chế chút nước nóng vô phin cà phê thôi, nước đủ để nở cà phê mà coi như chưa pha. Cùng lắm, chỉ cho cà phê nhỏ xuống ly đôi ba giọt. Cà phê rơi từng giọt/ từng giọt buồn rơi rơi/ nhìn đời qua khói thuốc/ mấy ai là tri âm. Không biết thời đi học, thằng mắc dịch nào sên sắc… sến ra mấy câu hời tình. Vái ông trời: không phải mình, đã đủ hên.
Thế đó, có một thời như thế ở quê tôi. Người ta không biết làm gì cho hết thời gian nên chôn đời vào những thú vui ru đời quên lãng. Giả sử một tên bạn làm quản lý thị trường, được con buôn dúi cho nhúm cà phê. Im miệng cho họ đi hàng lậu là đồng loã. Nhưng bắt họ sao được, họ là ai" Cô, dì, mẹ của mấy thằng mình. Vì sao họ đi buôn lậu cà phê" Để kiếm tiền tiếp tế cho chú, cậu, cha, anh trong trại tù cải tạo.
Nhúm cà phê ăn hối lộ mang về, ăn năn hối hận thoáng qua mau với mùi thơm của quỷ. Mấy mái đầu xanh tuổi trẻ ngồi nhâm nhi khổ nhục của cha mẹ, cậu mợ, dì dượng, chú thím… mới vỡ lẽ ra rằng: Trước hoà bình, cà phê như bắp, như khoai. Ai chở đi đâu thì chở, đừng chở vô rừng cho Việt cộng là được. Sao hoà bình rồi, cà phê trở thành mặt hàng quốc cấm. Cả nước không được uống cà phê. Cà phê là mặt hàng chiến lược, mặt hàng xuất khẩu… Nếu một ngày trái đất thiếu cà phê/ thành phố Paris sẽ biến thành thành phố chết/ dòng sông Seine ngưng chảy/ và chiến tranh/ sẽ làm nổ tung nước Mỹ… Đúng là không có việc gì làm thì người ta làm thơ cho hết thời gian. Thơ chẳng ăn nhậu gì với thế sự càng siêu. Làm thơ không ai hiểu là thượng thừa! Ghê thật.
Ngồi nhìn lá mới, gió mới về, lá mới xanh. Từng giợn lá như sóng xô theo gió, mơn man, mịn màng. Không khô khốc xạc xào như lá mùa thu, gió mùa thu vừa buồn vừa ảm đạm với màu lá, màu trời. Còn gì nữa mà không châm nước nóng vô phin cà phê. Sẽ thấy cà phê không chảy tong tong, hối hả vì cà phê trong phin đã nở đủ rồi. Những giọt cà phê sánh giọt sẽ rơi nhẹ hều xuống lớp đường trắng, mỏng dưới đáy ly tinh khiết diệu kỳ. Nhưng từ khi có xâm lăng, từng giọt, từng giọt đen thấm dần, loang dầu tới hết thơ ngây của lớp đường trinh bạch. Ngồi nhìn cà phê rơi đã đủ sướng, thú tính hưng phấn bội phần. Đen xâm thực trắng tới toàn phần y Trung cộng với Việt Nam. Tía má ơi! Không ngờ có ngày mình cũng để an nguy tổ quốc trong lòng như một nhà yêu nước vô danh.
Thả lỏng tư tưởng đi hoang cho đã, nhìn lại phin cà phê đã nhỏ giọt cuối cùng từ bao giờ. Hello người thôn tính, kết cục của xâm chiếm là cạn kiệt. Ngươi đồng hoá được đường trắng thành đen thì cà phê ngươi cũng đâu còn nguyên chất đắng, vị ngọt của đường đã tan loãng vào ngươi. Không bao lâu nữa, Trung cộng tràn xuống Việt Nam như cà phê xâm thực lớp đường. Tùy nồng độ ngọt, người ta gọi là ly nước đường có mùi cà phê hay ly cà phê có đường! Đằng nào, hai bên cũng không còn thuần chủng. Ngày xưa, vó ngựa Thành Cát đánh qua châu Aâu. Để lại dân tộc Bungari là dân tộc da vàng duy nhất ở châu Aâu. (Không nhớ đọc ở đâu, ai quởn, kiểm chứng giùm. Đa tạ)
Ít nhiều, chiến tranh đã kết thúc 35 năm. Hai cuộc chiến tây bắc với Trung cộng; tây nam với Campuchia năn 1979 không đáng kể. 35 năm thôi thấy hoả châu đêm đêm thắp sáng một vùng trời. Sáng ra thôi thấy mặt người hớt hải chạy tang. Nhưng cuộc chiến sắp tới không tránh khỏi. Máu lại chảy thành dòng ra biển lớn. Có hay không" Có chiến tranh thì chắc có, nhưng đổ máu thì không tin. Chả ai thích đổ máu, nhưng chẳng đặng đừng, thà đổ máu giữ nước, tướng chết theo thành khi không giữ được còn hơn. Nhưng “Hệ đầu hàng” đang nắm quyền bính trong tay, trong nước. Một chuyến bay trốn chui trốn nhủi ra ngoại quốc, họ bỏ lại toàn dân nô khổ cho Tàu, là điều hiển hiện.


Nghĩ tới thôi đã buồn. Nãy giờ gõ liên miên mà có biết là mình gõ gì đâu! Thì ra là: Nỗi buồn tháng tư. Ly cà phê cầu kỳ đã lạnh. Cái háo hức chờ hớp cà phê đầu tiên thời tuổi trẻ đã mất tự bao giờ. Sự hưởng thụ tới hồi không cần thiết bằng nghĩ cách đóng góp, làm cho con nít thành con nít sống lâu năm. “Nhiệt tình cộng với sự ngu dốt, tạo thành một sức phá hoại khủng khiếp”, là ta.
Nỗi buồn tháng tư đậm đà như muối muối. Muối đem muối hồi nào, ăn thời bụi phấn trắng vai, tới nay còn mặn. Ngồi uống ly cà chớn, đọc mớ email cà khịa. Bỗng tối sầm mắt mũi, rời rã tay chân với hồi ký của ông Nghĩa. Do báo Trẻ Florida gởi về. Đọc mà tức tácgiả, người chi tiếc viết tới cái họ với chữ lót. Nghĩ cho cùng, một cái tên ở đời có nghĩa gì. Người sống đúng tên như ông Nghĩa thì một chữ “Nghĩa” đã có nghĩa.
Đọc đi đọc lại như không tin mình hân hạnh được đọc hồi ký về vị tướng chết theo thành đã lừng danh thiên cổ. Đa tạ ông Nghĩa trước khi xin trích đoạn. Cầu xin Ơn trên cho ông được bình an tới lúc lâm chung vì những đau khổ trần gian ông đã gánh chịu hơn đời. Đa tạ.
Trích đoạn Hồi Ký:
“Lúc đó khoảng 8h30 tối ngày 30-4-75. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng và tôi. Bên trong phòng ngủ Chuẩn Tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt của phu nhân vừa kịp đặt trên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng, giọng ông thảng thốt:
- Nghĩa! Mầy đi ra...
Vừa nói ông vừa nắm lấy tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:
- Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng!"
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hằng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác mình như là thỏi sắt đang bị rút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt oà khóc!
   Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân tai còn vọng nghe tiếng rít cài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy 1 phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi! Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên (hình như có cả Thiếu Tá Phương):
   - Kiếm một con dao... cạy cửa mau...
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, 2 cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thỏng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, 1 tay cởi 2 khuy áo trên, tay kia đưa nòng colt 45 ấn vào chỗ trái tim...
Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng... Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác quả tim người anh hùng.
Đứa con đầu lòng, Lê Uy Hải, lúc đó vừa tròn 6 tuổi, đã nhặt được đầu đạn đưa cho mọi người xem, rồi mím môi khép 5 ngón tay giữ chặt "kỷ vật". Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm nay rồi. Khoảng một tiếng đồng hồ trước đó hai anh em (em gái 3 tuổi) còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của mình.”

*
Ông Nghĩa, chắc là sĩ quan tùy viên của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó Vùng IV chiến thuật, phó tướng của Tư lệnh Vùng IV Nguyễn Khoa Nam. Hai vị tướng tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi đọc hết hồi ký này, kính phục phu nhân tướng Hưng còn hơn kính phục vị tướng chết theo thành. Chuyện quá đương nhiên. Tướng đu trực thăng sao gọi là tướng được. Và đau lòngvô hạn với diễn tả của ông Nghĩa về thi thể Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam nằm trong Quân y viện Cần thơ.
35 năm thời gian trôi qua đời đứa trẻ lon ton đi lượm đạn về chơi ngày 30 tháng 4 năm nào. 35 năm sau, ngồi khóc thời gian, lặng lẽ nơi này.
Phan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,782,057
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông nhân dịp Fathers Day.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo từ nhiều năm qua, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Bài viết mới của Tịnh Tâm là một truyện ngắn nhân ngày Fathers Day sắp tới.
Tác giả sinh năm 1944, định-cư ở Mỹ năm 1979, sống ở California 25 năm với nghề điêu khắc gỗ. Một số tượng điêu khắc gỗ cỡ lớn hiện đang toạ lạc trên đường phố và nơi công công của các thành-phố Seaside, Monterey, và Los Gatos tại California là công trình của ông Tú.
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009 và đây là bài viết thứ ba của ông, tự sự của một cựu chiến sĩ về quê cũ tìm thăm mộ đồng đội cũ. Tác giả cho biết ông sinh tháng 10/1939. hiện là cư dân Houston, Texas. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang.Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư ở Mỹ.
Tác giả cho biết ông sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu và an cư tại Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008 và đã góp nhiều bài viết giá trị. Mừng tác giả trở lại trường học và mong ông viết thêm.
Ngày này, tuần tới sẽ là Fathers Day. Nhân dịp này, mời đọc bài viết mới nhất của Cam Li. Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoạ - hiện có trên trang mạng: http//tuoihoahatnang.com. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô góp cho giải thưởng Việt Báo nhiều bài viết giá trị và nhận giải vinh danh Tác Phẩm Xuất Sắc, Viết Về Nước Mỹ 2010.
Đây là bài thứ ba của Lê Thị. Tác giả 35 tuổi, cư dân Chicago. Trong email kèm bài đầu tiên, Lê Thị cho biết, "Mới đây, sau khi đọc một số sách của nhà văn Nhã Ca, tôi bỗng có cảm hứng muốn viết và đây là bài viết bằng Việt ngữ đầu tiên của tôi trong 20 năm qua." Với hai bài “Tôi Vẫn Là Tôi” và “Đâu Đó Có Chỗ Cho Chúng Ta” kể chuyện tình đồng tính, Lê Thị hiện dẫn đầu số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ trong 30 ngày qua. Bài viết mới làm bật lên sức quyết định của “hơi ấm gia đình” đối với những lựa chọn sinh từ trong tình huống tuyệt vọng, đồng thời cho thấy sức viết mạnh mẽ của tác giả.
Tác giả là một nhà văn, nhà báo, đồng thời cũng từng là nhà giáo, nhà hoạt động xã hội quen thuộc với sinh hoạt văn hóa truyền thông tại quận Cam.Ông đã góp nhiều bài giá trị và từng nhận giải danh dự viết về nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả với tên thật Nguyễn Thị Hữu Duyên gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Vẫn trong tinh thần ấy, bài mới của bà là chuyện của mùa Fathers Day.
Tác giả là một nhà thơ, sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông tiếp tục làm thơ và góp nhiều bài tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên.
Nhạc sĩ Cung Tiến