Hôm nay,  

30 Tháng Tư: Phút Cuối Của Vị Tướng

16/04/201000:00:00(Xem: 979834)

30 Tháng Tư: Phút Cuối Của Vị Tướng

Tác giả: Phan
Bài số 2866-28116-vb6041610

Tác giả là một nhà báo tại Dallas. Ông từng phụ trách mục "Chuyện Vỉa Hè" trong Ca Dao Magazine, và hiện trong nhóm chủ biên của báo Trẻ. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt và nhận Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2007. Bài mới nhất của ông kể về “Nỗi Buồn Tháng Tư” và một đoạn hồi ký đã làm ông “tối sầm mặt mũi”: giờ phút cuối của vị Tướng tuẫn tiết chiều 30 Tháng Tư, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.

***
Ly Cà Phê Đã Lạnh!
Lâu lắm rồi, tôi mới tử tế với mình một bữa. Pha ly cà phê phin đúng điệu thuở nào. Có chén nước nóng bên ngoài ly, cho cà phê đừng nguội. Chế nước nóng vô phin cũng phải đúng cách mới ngon. Đừng đổ lấy đầy như mọi hôm vì châm phin cà phê xong là đi đánh răng, rửa mặt, trở ra vừa xong. Tiết kiệm được thời gian, nhưng ngon thì không. Đúng điệu là chế chút nước nóng vô phin cà phê thôi, nước đủ để nở cà phê mà coi như chưa pha. Cùng lắm, chỉ cho cà phê nhỏ xuống ly đôi ba giọt. Cà phê rơi từng giọt/ từng giọt buồn rơi rơi/ nhìn đời qua khói thuốc/ mấy ai là tri âm. Không biết thời đi học, thằng mắc dịch nào sên sắc… sến ra mấy câu hời tình. Vái ông trời: không phải mình, đã đủ hên.
Thế đó, có một thời như thế ở quê tôi. Người ta không biết làm gì cho hết thời gian nên chôn đời vào những thú vui ru đời quên lãng. Giả sử một tên bạn làm quản lý thị trường, được con buôn dúi cho nhúm cà phê. Im miệng cho họ đi hàng lậu là đồng loã. Nhưng bắt họ sao được, họ là ai" Cô, dì, mẹ của mấy thằng mình. Vì sao họ đi buôn lậu cà phê" Để kiếm tiền tiếp tế cho chú, cậu, cha, anh trong trại tù cải tạo.
Nhúm cà phê ăn hối lộ mang về, ăn năn hối hận thoáng qua mau với mùi thơm của quỷ. Mấy mái đầu xanh tuổi trẻ ngồi nhâm nhi khổ nhục của cha mẹ, cậu mợ, dì dượng, chú thím… mới vỡ lẽ ra rằng: Trước hoà bình, cà phê như bắp, như khoai. Ai chở đi đâu thì chở, đừng chở vô rừng cho Việt cộng là được. Sao hoà bình rồi, cà phê trở thành mặt hàng quốc cấm. Cả nước không được uống cà phê. Cà phê là mặt hàng chiến lược, mặt hàng xuất khẩu… Nếu một ngày trái đất thiếu cà phê/ thành phố Paris sẽ biến thành thành phố chết/ dòng sông Seine ngưng chảy/ và chiến tranh/ sẽ làm nổ tung nước Mỹ… Đúng là không có việc gì làm thì người ta làm thơ cho hết thời gian. Thơ chẳng ăn nhậu gì với thế sự càng siêu. Làm thơ không ai hiểu là thượng thừa! Ghê thật.
Ngồi nhìn lá mới, gió mới về, lá mới xanh. Từng giợn lá như sóng xô theo gió, mơn man, mịn màng. Không khô khốc xạc xào như lá mùa thu, gió mùa thu vừa buồn vừa ảm đạm với màu lá, màu trời. Còn gì nữa mà không châm nước nóng vô phin cà phê. Sẽ thấy cà phê không chảy tong tong, hối hả vì cà phê trong phin đã nở đủ rồi. Những giọt cà phê sánh giọt sẽ rơi nhẹ hều xuống lớp đường trắng, mỏng dưới đáy ly tinh khiết diệu kỳ. Nhưng từ khi có xâm lăng, từng giọt, từng giọt đen thấm dần, loang dầu tới hết thơ ngây của lớp đường trinh bạch. Ngồi nhìn cà phê rơi đã đủ sướng, thú tính hưng phấn bội phần. Đen xâm thực trắng tới toàn phần y Trung cộng với Việt Nam. Tía má ơi! Không ngờ có ngày mình cũng để an nguy tổ quốc trong lòng như một nhà yêu nước vô danh.
Thả lỏng tư tưởng đi hoang cho đã, nhìn lại phin cà phê đã nhỏ giọt cuối cùng từ bao giờ. Hello người thôn tính, kết cục của xâm chiếm là cạn kiệt. Ngươi đồng hoá được đường trắng thành đen thì cà phê ngươi cũng đâu còn nguyên chất đắng, vị ngọt của đường đã tan loãng vào ngươi. Không bao lâu nữa, Trung cộng tràn xuống Việt Nam như cà phê xâm thực lớp đường. Tùy nồng độ ngọt, người ta gọi là ly nước đường có mùi cà phê hay ly cà phê có đường! Đằng nào, hai bên cũng không còn thuần chủng. Ngày xưa, vó ngựa Thành Cát đánh qua châu Aâu. Để lại dân tộc Bungari là dân tộc da vàng duy nhất ở châu Aâu. (Không nhớ đọc ở đâu, ai quởn, kiểm chứng giùm. Đa tạ)
Ít nhiều, chiến tranh đã kết thúc 35 năm. Hai cuộc chiến tây bắc với Trung cộng; tây nam với Campuchia năn 1979 không đáng kể. 35 năm thôi thấy hoả châu đêm đêm thắp sáng một vùng trời. Sáng ra thôi thấy mặt người hớt hải chạy tang. Nhưng cuộc chiến sắp tới không tránh khỏi. Máu lại chảy thành dòng ra biển lớn. Có hay không" Có chiến tranh thì chắc có, nhưng đổ máu thì không tin. Chả ai thích đổ máu, nhưng chẳng đặng đừng, thà đổ máu giữ nước, tướng chết theo thành khi không giữ được còn hơn. Nhưng “Hệ đầu hàng” đang nắm quyền bính trong tay, trong nước. Một chuyến bay trốn chui trốn nhủi ra ngoại quốc, họ bỏ lại toàn dân nô khổ cho Tàu, là điều hiển hiện.


Nghĩ tới thôi đã buồn. Nãy giờ gõ liên miên mà có biết là mình gõ gì đâu! Thì ra là: Nỗi buồn tháng tư. Ly cà phê cầu kỳ đã lạnh. Cái háo hức chờ hớp cà phê đầu tiên thời tuổi trẻ đã mất tự bao giờ. Sự hưởng thụ tới hồi không cần thiết bằng nghĩ cách đóng góp, làm cho con nít thành con nít sống lâu năm. “Nhiệt tình cộng với sự ngu dốt, tạo thành một sức phá hoại khủng khiếp”, là ta.
Nỗi buồn tháng tư đậm đà như muối muối. Muối đem muối hồi nào, ăn thời bụi phấn trắng vai, tới nay còn mặn. Ngồi uống ly cà chớn, đọc mớ email cà khịa. Bỗng tối sầm mắt mũi, rời rã tay chân với hồi ký của ông Nghĩa. Do báo Trẻ Florida gởi về. Đọc mà tức tácgiả, người chi tiếc viết tới cái họ với chữ lót. Nghĩ cho cùng, một cái tên ở đời có nghĩa gì. Người sống đúng tên như ông Nghĩa thì một chữ “Nghĩa” đã có nghĩa.
Đọc đi đọc lại như không tin mình hân hạnh được đọc hồi ký về vị tướng chết theo thành đã lừng danh thiên cổ. Đa tạ ông Nghĩa trước khi xin trích đoạn. Cầu xin Ơn trên cho ông được bình an tới lúc lâm chung vì những đau khổ trần gian ông đã gánh chịu hơn đời. Đa tạ.
Trích đoạn Hồi Ký:
“Lúc đó khoảng 8h30 tối ngày 30-4-75. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng và tôi. Bên trong phòng ngủ Chuẩn Tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt của phu nhân vừa kịp đặt trên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng, giọng ông thảng thốt:
- Nghĩa! Mầy đi ra...
Vừa nói ông vừa nắm lấy tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:
- Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng!"
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hằng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác mình như là thỏi sắt đang bị rút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt oà khóc!
   Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân tai còn vọng nghe tiếng rít cài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy 1 phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi! Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên (hình như có cả Thiếu Tá Phương):
   - Kiếm một con dao... cạy cửa mau...
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, 2 cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thỏng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, 1 tay cởi 2 khuy áo trên, tay kia đưa nòng colt 45 ấn vào chỗ trái tim...
Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng... Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác quả tim người anh hùng.
Đứa con đầu lòng, Lê Uy Hải, lúc đó vừa tròn 6 tuổi, đã nhặt được đầu đạn đưa cho mọi người xem, rồi mím môi khép 5 ngón tay giữ chặt "kỷ vật". Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm nay rồi. Khoảng một tiếng đồng hồ trước đó hai anh em (em gái 3 tuổi) còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của mình.”

*
Ông Nghĩa, chắc là sĩ quan tùy viên của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó Vùng IV chiến thuật, phó tướng của Tư lệnh Vùng IV Nguyễn Khoa Nam. Hai vị tướng tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi đọc hết hồi ký này, kính phục phu nhân tướng Hưng còn hơn kính phục vị tướng chết theo thành. Chuyện quá đương nhiên. Tướng đu trực thăng sao gọi là tướng được. Và đau lòngvô hạn với diễn tả của ông Nghĩa về thi thể Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam nằm trong Quân y viện Cần thơ.
35 năm thời gian trôi qua đời đứa trẻ lon ton đi lượm đạn về chơi ngày 30 tháng 4 năm nào. 35 năm sau, ngồi khóc thời gian, lặng lẽ nơi này.
Phan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,538,245
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến