Hôm nay,  

Bến Mơ - Aloha

04/03/201100:00:00(Xem: 130177)
Bến Mơ - Aloha

Tác giả: Võ Tâm Huy
Bài số 3134-28434 vb6030411

Sau hơn 10 lần vượt biển hụt, tác giả đến được tị nạn và định cư tại Hoa Kỳ từ 1981. Võ Tâm Huy thuộc lớp tuổi 30, cùng tuổi với cộng đồng Việt tại Mỹ, hiện là một kỹ sư làm việc tại tiểu bang Utah, đã góp một số bài và nhận giải danh dự Viết Về Nước My 2008. Bài viết mới của Huy lần này là một chuyện kể pha trộn giữa mơ và thực.

*

Tôi sắp kể cho bạn một câu chuyện về một người bạn mà chúng tôi thường gọi hắn là Sáu Vạng. Phải nói Vạng có một cá-tính rất ư là dị-thường đến nổi tôi cho là hắn bệnh hoạn. Vạng có một óc tưởng tượng rất là phong phú như trẻ nhỏ và thần thái của một tiên tri. Vì vậy hắn thường là đề tài cho cuộc đùa cợt, tán láo của chúng tôi. Nhưng một sự kiện dị ký đã đến như một giấc mơ làm thay đổi mọi ý nghĩ của chúng tôi về hắn.
Dạo đó, chúng tôi cư ngụ ở vùng Beachwild, tiểu bang Florida. Cũng như bao kẻ khác, chúng tôi rất bận rộn với những công việc thường ngày và chỉ mong cuối tuần mau đến để có dịp rãnh rỗi họp mặt, đùa giỡn. Vào những chiều Chủ Nhật buồn nãn, Vạng thường đưa ra một ý kiến chán phèo là đi dạo theo bờ biển để ngắm mặt trời lặn. Cho đến khi những tia sáng cuối cùng còn lẽ loi ở chân trời, Vạng đứng lặng người , hấp hối, xúc động mãnh liệt như kẻ từng chờ đợi và bất chợt được thấy tia xanh huyền bí. Và cũng đúng lúc đó, chúng tôi cùng la hét om tòm lên, tôi ù té chạy để phá vỡ giấc mộng du khó hiểu của Vạng.
Rồi đến khi gió sớm Thu về, trời biển đổi màu tím ngắt và thật buồn, chúng tôi về quay quần bên lò sưởi, cuốn mình trong chăn, nhâm nhi ly ca phê nóng, tỏa hương thơm phức và thật ấm áp. Vạng chợt đến, khoát áo da, dao găm lủng lẳng, hối chúng tôi sữa soạn một cuộc hành trình xa-xăm. Vạng chưa dứt lời, chúng tôi đã la bãi hại phãn đối. Vạng ra tài trấn áp, thuyết phục va hứa hẹn một cuộc viễn du kỳ thú vào cõi mộng. Có kẽ đứng dậy lục đục sữa soạn. Thuyền của bố Vạng được trưng dụng, bọn chúng tôi chỉ mang theo mùng mền, ít lương thực, và thuốc hút.
Chiều hôm đó, dưới hàng phi lao vi-vút, chúng tôi kéo thuyền ra khơi. Gió êm êm, sóng nhè nhẹ, Vạng cho thuyền chạy theo hướng Dông Nam, chung tôi tụ tập trên boong ca hát và ngắm chim trời cá bể.
Mặt trời vừa lặn, thuyền đã đến Ribon Island. Vạng bèn đổi theo hướng sao Hôm. Mây từ đâu kéo về giăng phủ. Sóng đẫy gập ghềnh. Chúng tôi phải vào ca-bin và nguyền rủa. Gió mỗi lúc thật lớn, rít ghê người và mưa tuôn xối xã. Mặt cho chúng tôi mệt lã vì sóng nhồi, như một thủy thủ đầy đặn, Vạng vận dụng bên bánh lái, lẫm bẫm tựa như phù thủy đọc thần chú.
Khi bình yên trở lại, thuyền vào một vùng sương mù đầy đặc, có kẽ dựa vào thành tàu mà ngủ. Vạng chợt réo mọi người dậy và phóng mình ra boong. Khi vừa ra khỏi ca-bin, tôi bàng hoàng chìm trong một vùng ánh sáng lung linh huyền ảo. Mình đã vào Biển Bắc rồi, Vạng lẫm bẩm. Phải! Chúng tôi đang đi rong giòng Ngân và chung quanh là hang động kỳ cùng. Tôi hứng chí tay khẽ chèo khua Ngọc Tuyền lung linh ngân cánh hạc. Sáu Hân già nua cũng khoan khoái hớp ngụm hồ-dào rồi trỏ Sao Ngưu, sao Chức mà vẽ con đường vũ trụ.
Ôi! Trời thu mênh mang.
Ôi! Chén Thu tàng tàng.
Thuyền về Bến Mơ, Vạng nói. Thuyền đang về Bến Mơ mày ạ!
Trời quang đãn, khuất sau hàng dừa, bãi cát vắng lạnh lẽo, vắng vẽ. Thuyền chưa neo, Vạng đã hăm hỡ, xăm xăm tiến vào rừng như vẽ rành rẽ lắm. Chúng tôi thì còn ngẩn ngơ khiếp sợ. Nhưng tôi biết…. Tôi biết có một giòng hồng-hạc bay về từ cõi mộng.
Nhưng đường rừng cheo leo quá, hiểm hóc quá, nhiều lúc phải vịn dây leo, đu mình qua gai góc như những kẽ ngậm ngãi tìm trầm. Cuối cùng chúng tôi bị lạc lối, hoang mang vô độ, dựa vào góc cây mà thở dốc. Đang dở khóc dở cười, Vạng bèn leo lên cây cao mà dò đường. Ba hồn chín vía, chúng tôi cũng tìm đến giếng Ngọc cho hận thỏa ước ba sinh hướng lữa. Bên bờ giếng, một thiếu nữ trong gấm hoa rực rỡ suối tóc xõa dài e ấp trên bộ bồng đào tươi thắm. Đóa trà mi khẻ nở khi bọn chúng tôi chợt đến, đúng hơn là khi thấy bóng Vạng đui, “ Thiếp đã chờ ở đây lâu rồi”.

Nàng vội đưa chúng tôi ra ngoài bìa rừng và chỉ cho chúng tôi trăng treo trên đỉnh núi. Hình như có hương hoa lan, hoa lài thì phải" Hay hương trầm từ thân thể ngọc ngà ngoài hai đạo xa xôi"
Chúng tôi theo đường đèo mà đi. Đường mỗi lúc một rộng mỡ và đã có khách bộ hành cùng theo về một hướng.
Từ đèo cao, đã nghe thấy tiếng trống di đùng đùng và thấy ngọn lữa cháy sáng cả một vùng. Gần về nơi dự hội, nhiều toán người ăn mặt thật rực rỡ, hân hoan đón tiếp khách nhàn du và trao tặng đóa thiên hoa hương làm ghi.
Người ta bồi tiếp mật ngọt trong sương, rồi dùng sơn hào hải vị. Bên đống lữa, nhiều thanh niên vạm vỡ mình trần và thiếu nữ che thân với hoa lá, nhảy múa những vũ điệu hoang đường, dập dờn theo nhịp trống bùng, vang vang trong sóng nghe thưởng. Say sưa trong hương vị ban sơ của thiên nhiên, chúng tôi cũng điên đão nhảy múa lọan cuồng.
Sau khi đã hả hê quay cuồng, chung tôi cùng những thiếu nữ chạy ào ra bờ biển, lăn dài trên cát. Tôi dựa vào một tản đá bên bờ, say sưa cùng người ngọc có đôi mắt hồ ly mộng mị, có bóng dừa hoang dại xa xăm, có nét đẹp Đông Dương huyền bí. Chúng tôi yên lặng bên nhau, lắng nghe tiếng gió tha hương đu đua trên rặng dừa rồi buông mình du viễn theo nhịp hải hà của sóng. Chúng tôi đê mê lặn theo những giòng cuồng lưu ấm áp ngắm trời trong biển cả. Tôi nghe băng hoại trong sự tha hỏa linh mãn của cảm giác. Trong sự biến thể của loài cá sâu, tôi rùng mình cảm nhận sát-na lưu tổn của bản thể trong đài nga. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ êm đềm.
Trong giấc ngủ dài ủ ê đó, chợt có một lũ nhi đồng áo lam, đèn ngọn trên tay, mặt trắng nhợt như chết trôi, vừa đi vừa hát vọng tới:

Hán Dương đông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Tản Đà dịch thơ Hoàng Hạc Lâu củaThôi Hiệu)

Gió ở đâu thổi về lành lạnh làm tỉnh thần hồn… Người ngọc vẫn say sưa trong giấc ngủ thiên thần.. Tôi khẻ hôn nhẹ lên mặt để thức nàng dậy. Ôi! Chim đi nhớ nam khi gió lạnh về, thiêu thân tìm lữa mà tới, tôi tìm về với âu lo, tẻ nhạt. Tôi ghi chặt lấy nàng chỉ muốn được hòa nhập. Nàng hiểu sự thôi thúc bí ẩn trong tâm tưởng tôi. Nàng gạt nước mắt, khẻ lắc đầu khi tôi hẹn trở lại điều mà sau này tôi biết là không thể có được. Nàng dẫn tôi theo đường đèo, lặng lẽ cặp theo mé biển lẫn theo hướng Tây, sẽ có thuyền neo sẵn.
Phải hết hơi mới tìm được tụi nó. Vạng đui còn ngơ ngác hỏi đi đâu, về làm gì. Rồi nó đeo theo con bé trích tiên trên đường đào tẩu, lẽo đẽo tuốt đằng sau.
Tìm đựơc điểm thuyền neo không mấy khó khăn, nhưng khi quay lại thì không thấy bóng Vạng đâu nữa. Tôi nói tụi nó lên ca-bin trên thuyền sửa soạn, chờ tôi quay lại tìm Vạng.
Tôi lại đi vào rừng, tiến đến gần chân đèo. Dưới ánh trăng, đèo cao đìu hiu, vắng lặng, cây đổ bóng cheo leo trên dốc vắng. Tôi không có ý tìm đường lên, mà đi dọc theo chân đèo đến khi phải đứng lại vì suối chảy ngang. Tôi ngơ ngác nhìn quanh, chợt thấy vài bóng người trên đèo, tôi đánh bạo làm loa tay la lớn:
“Vạng! Vạng! Mày có về không" Phải mày đó không Vạng"”
Chỉ có tiếng vọng của núi rừng. Nhìn bóng đen trên đèo vụt biến mất.
Chúng tôi lên thuyền kéo neo mà không có Vạng. Khi thuyền đã ra khỏi bờ, mọi người ôm gói nhìn lại đảo tiên, theo đuổi những ý nghĩa riêng. Từ đâu, tôi còn thấy ánh lửa phản chiếu trên mặt biển. Lẫn trong tiếng sóng vỗ tới chợt nghe tiếng hát ai xa vắng:

Ta ở đâu hề, ta đi về đâu,
Trời đất mang mang hề, ta về chốn Đai-Hoang.

Tôi chợt bật khóc nức nở.
Chúng tôi thiếp đi khi thuyền vào vùng sóng dậy. Đến khi tỉnh, thuyền đã dạt vào một bãi vắng cách Beachwild 300 dặm về phía Nam.
Chúng tôi rã rượi lên bờ, trong hồn mênh mang nỗi buồn. Tay nâng niu cánh thiên hương còn tỏa hương… ngát mà cảm nhận một sự mất mát vĩnh viễn, sự gián đoạn của một đời sống cát lỡ. Vài cánh chim vỗ cánh về biển xa, còn thấp thoáng đám hòn đảo nhấp nhô trên sống gập ghềnh.
Võ Tâm Huy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,271,184
Tác giả sinh năm 1980, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu 2000, đã nhận giải Chung Kết 2008 với bài “Chuyện Của Cây Vông”. Thụy Nhã (hình bên) hiện làm việc trong một bệnh viện tại Nam Cali. Sau đây là bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Quý Tỵ, hiện đã phát hành khắp nơi.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, 2000, nhận giải bán kết năm 2001, thêm giải Việt Bút 2010, và đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo từ nhiều năm qua, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Bài gần đây nhất của Tịnh Tâm là “Cu Đất”, kể chuyện đi dự đám cưới cô bạn tên Nhã, tình cờ nhận ra chú rể tên Jonathan chính là đứa em nuôi ngày xưa tên Cu Đất, biệt tích từ nhiều năm, sau một chuyến vượt biển. Sau đây là hồi hai câu chuyện.
Tác giả nguyên là một sĩ quan hải quân VNCH, một nhà thơ quân đội. Sau tháng Tư 1975, ông là người tù chính trị, định cư tại Mỹ theo diện H.O., hiện là cư dân San Diego. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu tiên, Phạm Hồng Ân đã nhận giải danh dự 2012. Sau đây là bài viết mới nhất của ông, nhân ngày tưởng niệm Hoàng Sa, 19 tháng Giêng, 2013.
Trước 30/4/1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn, truyện dài cho bán nguyệt san Tuổi Hoa, và Tủ Sách Tuổi Hoa - hiện có trên trang mạng: http://tuoihoa.hatnang.com/ và http://www.camlinguyenthimythanh.com Sau ngày 30/4/1975,
Tác giả là cư dân Houston, Texas, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Mong bà sẽ tiếp tục góp thêm những bài viết mới và bổ túc dùm địa chỉ liên lạc.
Với cách viết tinh tế, Nguyễn Văn đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012. Ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Sau đây là bài viết mới của tác giả.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon.Đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ hai của bà, với lời ghi “Tặng thế hệ thứ 2, thứ 3 rất xuất sắc trên nước Mỹ và trên khắp Năm Châu. “Mong bà sẽ tiếp tục viết bằng những chuyện sống thật của người Việt tại Mỹ.
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục và trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA.
Tác giả tên thật là Tô vĩnh Phúc. Trước 1975, tốt nghiệp cử nhân Luật Khoa và Văn Khoa tại Sài Gòn. Định cư tại Sacramento, California từ 1986, học và làm nhiều ngành khác nhau. Hai tập thơ đã xuất bản: "Bên Bến Sông Buồn" (2011) và "Nắng Chiều Còn Vương" (2012). Tác giả hiện là cư dân ở Sacramento, Cali và tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 5, 2011. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Nhạc sĩ Cung Tiến