Hôm nay,  

Ông Lái Đò

04/06/201100:00:00(Xem: 788318)

Ông Lái Đò

Tác giả: Phan

Bài số 3194-12-28494vb7060411

Tác giả là một nhà báo tại Dallas, từng phụ trách mục "Chuyện Vỉa Hè" trong Ca Dao Magazine, và trong nhóm chủ biên của báo Trẻ. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt và nhận Giải Danh Dự 2007 Viết Về Nước Mỹ. Bài viết mới của Phan là chuyện tình già bâng khuâng sau mùa đông hải ngoại.

***

Bà Tư đưa cháu ngoại ra xe bus học trò, trở vô nhà vội vã vì bếp đang bắc nồi cháo trắng, sợ trào. Rồi quên khuấy đi chuyện cơm cháo khi chướng mắt với bụi cỏ dại, đã nhổ mấy lần mà không tiệt gốc; như ông già quỷ bên hàng xóm, bà khép nép không xong thì nghinh lại chứ sợ gì, cũng mấy lần rồi mà đằng ấy cứ lì như trâu, cứ nhìn người ta không chớp mắt. Sáng nay mắc dịch mắc toi gì mà không thấy chắp tay sau đít đi tới đi lui, nhìn ai như thôi miên, nhìn ai người đó ngượng mà người nhìn trơ trơ như bị bệnh đứng tròng. 

Bà Tư chợt nhớ mình cũng mới nhìn sang bên bển, chớ không sao biết người ta không ra ngõ sáng nay. Mà thôi mặc kệ cho chết thúi, chết sình trong nhà, cho đáng đời ông già thấy ghét. Sao hàng xóm không phải là một bà già để có bạn trò chuyện qua ngày, xứ này buồn như giặc về quanh năm, nhà nào cũng đóng cửa kín bưng kín bít.

Bà Tư lơi suy nghĩ, chổng mông nhổ bụi cỏ dại ngoài ngõ, an tâm, không sợ ai nhìn tới đứng tròng không biết ngượng, nhìn rách sáo người ta... quỷ tha ma bắt cái ông già khó ưa nhưng sao cứ giống giống một người; cỡ tuổi hơn bà chút đỉnh để hết đời thấy ai giống giống lại thót tim, nhớ người. Bà Tư trách mình sao già rồi còn hay tơ tưởng; hay tại tuổi già không có chi lo, làm người ta ưa nhớ lại! Bà Tư đuổi ra khỏi đầu óc những cơn mơ kỳ cục; những lúc nhớ rưng rưng... sợ con cháu biết sẽ cười mình.

Bà Tư nhổ cỏ dại như bứng bỏ những hình ảnh sống lại; để sống đời hiện tại là ráng đừng bệnh hoạn thì mới để dành được tiền già, gởi về xây lại hết mồ mả ông bà, mộ ba tụi nhỏ tuy mới xây trước hôm bà đi xuất ngoại, nhưng e cũng sạt bờ, lở mộ vì xây gần rạch quá! Bà Tư nghĩ khuất vách là không còn thấy mặt; nhưng sao khuất mặt, người ta cứ như thấy nhau chạng vạng, đầu hôm; thấy rõ mà như không. Ông trời không cho thấy thì đừng bắt người ta nhớ người này kẻ nọ; đằng đây tủi lòng thì đằng đó cũng buồn hơn vui...

Thôi, nhổ cỏ, nhớ hồi mần tối mặt nuôi con, có nhớ ai đâu, chưa được ngả lưng đã ngủ gục; ngủ đâu từ trong bụng ngủ ra. Không vậy làm sao sống mấy chục năm trời bán mặt cho đất bán lưng cho trời... 

Bà Tư quyết định nhổ bụi cỏ dại, nhất định không để trong lòng những nhớ nhớ quên quên làm biếng ăn khó ngủ, đổ bệnh là hết thực hiện được giấc mơ trong đời. Bà Tư nhổ cỏ tận tình với hết sức bình sinh, nhưng mới sang Mỹ nên bà Tư không biết loại cỏ đuôi chuột ở Texas, loại bermudagrass này phải tưới nước dữ lắm còn nhổ không lên, người ta nhổ sau mưa còn khi được khi không, nói gì sức già phi mã lực.

Bụi cỏ thanh mảnh, hoa tím li ti như thạch thảo mà cứng giàng trời, nhổ mấy lần không bật gốc nên bà Tư, bật ngửa. Ê mông không bằng quê xệ, cái ông già quỷ bên hàng xóm mà thấy mình chỏng càng quỷnh cẳng thì cười cho đã; Cái ông già quỷ linh như cô hồn sống, hễ ra ngõ là gặp; nhớ tới là gặp; không muốn thấy cũng gặp... nên ông già quỷ đã chắp tay sau đít đi tới đi lui, nhìn sang. Bộ vợ chết thì có quyền muốn nhìn ai thì nhìn hay sao" Đàn ông ở Mỹ không lịch sự như bên mình.

Bà Tư kết luận cho trôi cục giận trong lòng, để đứng lên. Nhưng xương già như củi mục, càng ráng, càng xụm bà chè. Nón văng đằng nón, dép đằng dép, chỉ đứng lên thôi, vào nhà rồi tính sau, sao mà khó... mắt mũi hoa hoa như say rượu, bà vịn được gốc cây, chồm dậy. Phải gốc cây mục nên nó đổ theo bà lần nữa, thì ra ông già quỷ níu bà đứng lên, nhưng ông ấy hơn gì bà đâu nên cùng nhau bò càng ra sân. Bà Tư giận mình hơn giận người khi nghe ra giọng nam trầm đĩnh đạc: "Chị có sao không, tôi xin lỗi đã giúp chị mà không lượng sức mình, làm chị ngã lần nữa..." 

Dĩ nhiên là bà Tư không sao, không sao... một mình dong xuồng qua sông Hậu còn không sao, chỉ đứng lên sau cú ngã nhẹ hều thì nghĩa lý gì chớ! Nhưng mắt cứ đổ sao đến nỗi người ta phải dìu vô nhà. Bà Tư ngồi dựa lưng trên sofa, hai tay ôm gối, hai chân gác lên cái ghế nhựa nhỏ, có lót khăn bông cho êm.

Mình đắp chăn mỏng để giữa ấm, trên bàn phòng khách còn có một ly trà, loại ly uống trà của người tàu bằng xứ, có nắp đậy để giữa ấm... trong cơn mơ điệu đàng, có tiếng ai nhẹ nhàng khe khẽ hát...

"Mới ngày nào trên bến sông vắng lạnh, đời buồn tênh như lỡ một cung đàn. Thuyền đò ông mang nặng sầu cô quạnh, lững lờ đưa bao khách lạ sang sông. Khách qua đò ngày xưa hờ hững quá..."

Đến đoạn,

"Ông lái đò trong tuổi già bóng xế, còn mong gì thấy được ánh hồng tươi..."

Rồi đến,

"Và từ đó, bên hàng lau lả lướt, khách ngày xưa không trở lại bao giờ. Bến mỗi chiều, thả thuyền theo sóng nước, ông lái đò buồn, đôi mắt mỏi mòn trông..." 

Bà Tư nghe lệ nóng chực tràn với bao kỷ niệm xa xưa mà thật rõ ràng chuyến sang sông lần đó, từ đó đã không về lại nơi xa mà ở mãi trong lòng... có bao nhiêu chuyện lòng không biết nói cùng ai, phải như quên được đã nhẹ tuổi già.

Bà Tư mở mắt trong ánh sáng nhá nhem của căn phòng khách rộng nhưng không mở đèn, không vén màn cửa sổ. Bóng ông già quỷ đứng chết trân như quân hầu, tay cầm giấy chậm nước mắt... sao không chậm cho người ta! 

Giọng ông già quỷ càng nghe càng ấm lòng,

"Chị thấy đỡ chút nào chưa" Uống miếng trà đi, cho ấm bụng. Hay ăn miếng cháo nha, tui tắt bếp rồi, nhưng cháo còn nóng lắm..."

Bà Tư bối rối không bằng hối hận, người ta coi vậy mà tử tế đó chớ,

"Anh có sao không"..."

Tuyết rơi nhẹ hều trên cây bông giấy trơ cành, tuyết trắng trời nỗi nhớ ông già quỷ. Không biết có còn trong Viện dưỡng lão hay đã ra người thiên cổ. Coi vậy đã mấy năm không gặp, mớ hạt mướp hương đem từ Việt Nam qua, đưa cho ảnh trồng được có hai mùa là mất giống, giỡ giàn, còn đâu. Cây đào ngoài cửa sổ rực hồng, ảnh trồng để nó ra bông là biết tết đến...

Bà Tư uống trà từ sau lần dựa vai người hàng xóm xấu nết đẹp lòng, chỉ uống bằng cái ly trà tàu có nắp đậy, mấy lần định đem sang nhà trả lại người ta. Nhưng mắc cỡ muốn chết khi nghe con gái nói,

"Bác trai bên bển bị đột quỵ, may là không chết nhưng dây thần kinh nó giật sao đó má ơi! Từ sau lần đó, mắt bác ấy nhìn má... là nhìn con. Bác ấy muốn nhìn sang hai bên là phải xoay người, quẹo cổ chớ mắt không liếc được như mình. Tội nghiệp bác ấy hiền mà tốt lắm, hồi má chưa qua, nhiều khi vợ chồng con đi chơi khuya, gởi Cu Bi cho bác coi giùm. Nửa đêm về, tụi con qua đón Cu Bi, bác không chịu cho phá giấc nó đâu. Để nó ngủ tới sáng mới cho về nhà. Nó gọi ông bác là ông ngoại đó má... mắc cười hôn"" 

Con gái bà Tư vừa láp dáp với má, vừa châm nước nóng vô ly trà cho má, mặc vớ cho má khỏi lạnh chân...

Mắt bà Tư còn lưu luyến cành đào non nớt ngoài kia rùng mình trút tuyết. Bà Tư kéo chăn mỏng lên người để đắp lại ký ức,

...khách qua đò ngày xưa hờ hững quá...

ông lái đò đôi mắt mỏi mòn trông,

còn văng vẳng trong gian phòng kỷ niệm.

Phan

Ý kiến bạn đọc
04/06/201110:28:56
Khách
Thật cảm động! Cám ơn tác già.

thử
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,723,640
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, 2000, nhận giải bán kết năm 2001, thêm giải Việt Bút 2010, và đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết từ ba năm qua. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục, từng trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA.
Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, Lê Thị, -cư dân Chicago, 35 tuổi- gửi 7 bài và trở thành tác giả nhận giải Chung Kết 2012 với những tự sự khác thường về đề tài đồng tính. Sau đó mọi người mới biết Lê Thị là bút hiệu của Calvin Trần, nhà thiết kế thời trang gốc Việt nổi tiếng trong dòng chính.
Đào Như là bút hiệu của Bác sĩ Đào Trọng Thể, từng nhận giải "Tác Phẩm Xuất Sắc Nhất" Viết Về Nước Mỹ 2005. Trước 1975, ông là một y sĩ tiền tuyến chuyên về phẫu thuật. Định cư tại vùng Chicago, Hoa Kỳ, ông là chuyên gia bệnh tâm thần, và đã thành lập một câu lạc bộ đặc biệt để trợ giúp nhiều đồng hương và cựu chiến sĩ VNCH, cựu tù nhân cộng sản. Bài mới viết là một đoạn Hồi Ký Hậu Chiến của một Bác sĩ Phẫu Thuật, mang tên “Thiên Lý và Vô Tận”.
Tác giả là một nhà thơ quân đội. Trước 1975, ông là một sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên, Phạm Hồng Ân đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012. Bài viết mới của ông được phổ biến đúng ngày đầu năm dương lịch 2014. Việt Báo Viết Về Nước Mỹ trân trọng chúc tác giả và bạn đọc, bạn viết một năm mới an lành.
Tác giả là một nhà thơ quân đội. Trước 1975, ông là một sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên, Phạm Hồng Ân đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012. Bài viết mới của ông được phổ biến đúng ngày đầu năm dương lịch 2014. Việt Báo Viết Về Nước Mỹ trân trọng chúc tác giả và bạn đọc, bạn viết một năm mới an lành.
Tác giả 65 tuổi, định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba1992, hiện là cư dân Cherry Hill, tiểu bang New Jersy. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Tháng Ba, Trời Đất Vào Xuân,” tự sự của người vợ người mẹ trong một gia đình H.O., tự sơ luợc về mình “22 năm dạy học trong nước, 22 năm làm “culi job” trên đất Mỹ. Sau đây là bài viết thứ chín của tác giả.
Tác giả định cư tại vùng Seattle, tiểu bang Washington từ năm 1975, đã hồi hưu hơn mười năm qua. Ông đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013 với bài viết đầu tiên và cũng là bài duy nhất trong năm, kể về một gia đình có ba tôn giáo lớn của thế giới kết hợp: Một con dâu Thiên Chúa Giáo, một rể đạo Phật, một rể đạo Muslim, nhưng tất cả thuận hoà và đạo ai nấy giữ, các gia đình liên hệ đều tôn trọng tín ngưỡng của nhau. Bài thứ hai, ông viết về phở. Sau đây là bài viết thứ ba.
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80’ khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết “Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi,” kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Bài mới của Diệu Hương được viết để tiễn đưa ca nhạc sĩ Việt Dzũng, người cô chưa từng gặp.
Tác giả là một nhà báo quen biết tại Dallas, từng dự phần chủ biên một số báo Việt ngữ địa phương. Góp bài với Việt Báo từ nhiều năm, ông vừa nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2013. Mới tuần trước, Phan đã có bài “Mùa Lễ”, và nay là bài viết ngay ngày lễ Giáng Sinh 2014.
Nhạc sĩ Cung Tiến