Hôm nay,  

Năm Tháng Bạc Màu

30/10/201100:00:00(Xem: 138985)
Năm Tháng Bạc Màu

Người viết: ThaiNC
Bài số 3397-12-28607vb8102911

Tác giả tên thật Nguyễn Thụy, theo ba mẹ đi H.O.8., tốt nghiệp Computer Engineering. Sau 6 năm làm thuê, đã thành lập và điều hành công ty Newteck - PCB Inc tại City Tustin được 4 năm. Năm 2010, tác giả có bài viết về nước Mỹ đầu tiên nêu lên điều ước mong: Thủ đô tị nạn của người Việt hải ngoại cần có một đền thờ 5 vị tướng anh hùng tử tiết của miền Nam Tháng Tư 1975. Sau đây là bài viết mới.

***

Tên chàng là... Tớ. Một ai đó hỏi, Tớ là nghĩa gì, chàng thản nhiên trả lời: Tớ ở đây không phải là cách xưng hô tớ với thầy, của một người đặt mình vào một điạ vị thấp kém hơn người đối diện. Nhưng Tớ là cái tên "cúng cơm" khi cha mẹ sinh ra đặt lấy.
Cha mẹ chàng có lối mê tín dị đoan, lúc chàng chào đời không đủ tháng, nhỏ con èo ẹt, đầu to đít teo răng vồ, lại thêm xấu xí, muốn nuôi chàng đến khôn lớn, nên phải chọn cái tên "nô lệ" của người đời để khỏi phải "ma đưa lối quỉ đưa đường."
Từ tuổi thơ đến lúc trưởng thành dù không nói ra. Nhưng chàng cũng mang nhiều mặc cảm với đời. Lắm lúc suy nghĩ, chàng tự hỏi, tại sao ba mẹ không đặt cho chàng cái tên gọi yêu thương như Danh, Dự, Quốc, Gia v.v.. Thế rồi, cái danh từ riêng mang tên Tớ, người đời quen gọi, quen nghe, rồi cũng trở nên bình thường trong xã hội.
Đã lâu lắm, chàng không còn liên lạc với những người bạn thân quen mà trước đây cùng chung học dưới mái trường năm xưa. Và cũng do mang cái tên nửa nạc nửa mỡ của chàng mà bạn bè cùng lớp "trêu ghẹo" hỏi chàng rằng: "mầy là tớ còn ai là thầy!" Chàng khó trả lời quá, cũng từ cái tên Tớ "vong nô" mang tính cách "mị người" với câu hỏi "nghịch mạng" của đám bạn bè khi mở miệng nói ra là đã có vấn đề rồi. Chàng chỉ trả lời đơn giản "tên giữ chữ đặt" cha mẹ sinh ra đặt tên sao tao chịu vậy, "tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Trừ khi bọn bạn cố chọc tức thì chàng chỉ nói với giọng gắt gỏng "tớ ở đây là làm tôi, vén váy luồn trôn cho kẻ bá quyền."
Từ ngày bỏ nước ra đi, chàng mang trong lòng nỗi buồn "thân phận" của kẻ mất quê hương. Người ta nói không phải là quá đáng lắm, khi người ta nhìn chàng rồi nói rằng: "chàng có một nỗi buồn, ôm trọn cả nỗi buồn của nhân loại". Đến nỗi sponsor người Mỹ cũng than phiền "chúng tôi chẳng thấy ông ấy cười bao giờ". Và một số bạn thân hỏi chàng vì sao thế, chàng đáp lại bằng câu "đừng hỏi tại sao tôi buồn."
Tớ ít nói, nhưng khi nói thì thế nào cũng lồng vào một chút xíu "tiểu lâm" làm người nghe không nhịn cười được. Chàng quan niệm rằng "lòng càng vui, thì cuộc sống càng dài, hay là một trái tim vui sẽ chữa được bệnh như ông thầy thuốc."
Trên đất Khách 21 mùa thu trôi qua, theo đời cơm áo, từ khi vận nước đổi thay, đời chàng như trái banh trên sân cỏ, kẻ đá ngược, người đá xuôi, không biết đâu mà lăn đúng hướng cho vừa đôi chân người đá.
Chàng không còn gì để lo nghĩ nơi tuổi đời xế bóng. Song vẫn ước mong những điều tốt lành đến con cháu trong mọi lãnh vực, học vấn ngành nghề tiến thân. Nhưng chàng không khỏi âu lo về mặt tinh thần nhân bản của cháu con, sau vài thế hệ, khi chúng uống nước không còn nhớ nguồnï!
Đã chín lượt mười lần chàng di chuyển chỗ ở, chàng tưởng đâu đánh mất quyển sổ "tình bạn tri âm." Bạn bè sống trên đất Mỹ, cũng có chung một hoàn cảnh như chàng, địa chỉ số phone cũng thay đổi lia lịạ, nên chàng không còn lấy gì làm lạ lắm. Khi cuộc sống đổi thay, từ đó bạn mới không có, bạn bè năm xưa càng ngày càng xa, không còn liên lạc cho nhau, hay đã yên ngủ một thuở nào không hay biết.
Từ ngoại cảnh đến tiềm thức bên trong lòng chàng, giờ chỉ còn lại bằng một phần mười sau ngày bỏ nước ra đi, chàng không còn muốn lui tới chỗ đông người, không còn thích đi họp "đồng hương," "đồng thuyền," hay "đồng hội."
Trái lại, chàng thích âm thầm lẻ bóng, tìm cô đơn trong gió lạnh mưa buồn, chàng thích tìm nghe những lời nhạc buồn của một thời dĩ vãng năm xưa, hay những âm thanh gợi nhớ chứa chan những xót xa nơi người lính nằm xuống trên quê hương bỏ lại.
Tiếng nhạc réo rắc, lời ca trầm buồn đang hiện về trước mặt chàng, như một cuộn phim đang quay thật chậm, những hình ảnh bi thương sống động của những em thơ, của những mẹ già, của những người bạn thương phế bimh xấu số, của kẻ mất tất cả tài sản, giờ nầy phải đi nhặt từng miếng ni lông bên vệ đường, bán từng lá vé số dạo hay lang thang nơi bến xe đầu chợ. Tất cả đang đói, đói ở hiện tại, đói ở tương lai, và đói cả yêu thương! Họ đang mong chờ lòng từ tâm của kẻ qua đường bố thí. Tất cả những hình ảnh ấy đã gậm nhấm vào bên trong tiềm thức chàng, như một lớp sơn rỉ sét đang bám vào thanh kim loại, vì thiếu một lớp sơn chống ốc xít hóa.
Hỡi người đồng chủng ơi! có nghe được tiếng gọi "một giọt máu đào vẫn hơn ao nước lã" đã còn hay mất!
Trên quê hương khổ đau của chàng, có kẻ lắm bạc thừa tiền, ném tiền qua cửa sổ không biết tiếc, một bánh trung thu trăm đô cũng mua được, một tô phở 100 "nghìn đồng hồ" cũng ăn v.v.. Trái lại, một đất nước đi nơi đâu cũng nghe những tiếng thở dài, những tiếng than ai oán bên cạnh những nụ cười héo hắt, trên một đất nước nát tan.
Trên quê hương buồn tủi ấy, chàng đã từ bỏ nó ra đi, không một chút luyến tiếc. Nhưng, những hình ảnh và âm thanh đau thương ấy, vẫn theo chàng không trốn chạy, như chàng đã từng trốn chạy nó, mỗi khi chàng bắt gặp trên báo chí, truyền thanh, truyền hình, hay trên Internet.
Giờ phút nầy, chàng ước ao phải chi Alexandre De Rhodes còn sống, chàng sẽ đến xin ông cho thêm nhiều và nhiều chữ Alphabet khác nữa, ngoài 24 chữ cái mà tuổi ấu thơ chàng đã học ở lớp mẫu giáo thầy cô đã dạy. Vì 24 chữ cái trước đây viết thành văn bản nhưng người đọc lại không hiểu. Có thế chàng mới có " đủ chữ " và "ngôn ngữ khác" lắp ráp lại thành "câu văn muốn nói, nhưng không nói được" những từ ngữ muốn dùng, nhưng không thể dùng được" v.v.. Mặc dầu chàng và "ho"ï là những người cùng sống chung trên một đất nước và cùng nói chung một thứ tiếng Việt Nam.

Chàng liên lạc qua phone một vài người bạn năm xưa, là một an ủi ở tình nghĩa "thân" nhưng không "ái." Nhưng, xét qua cái duy lý nhân cách hóa trong tiếng hát lời ca, "sỏi đá cũng cần có nhau." Vì thế, chàng cũng cần chia xẻ với bạn thân khi nghe bên kia đầu dây, với giọng nói thân thương như từ thuở nào, vẫn còn đậm đà chân thật, như mới ngày nào quen biết nhau, chàng hy vọng đó là tiếng phone của bạn ở các tiểu bang khác gọi thăm.
-Hello, ai gọi Tớ đó.
-Hà đây, lâu lắm rồi không gặp, anh khỏe không" Tết qua xuân đến, Hà chúc anh phúc lợi dồi dào.
-Cảm ơn Hà, thông thường bạn bè của Tớ có phúc lợi nhiều lắm, riêng Tớ chỉ có "lợi" nhưng không có "phúc" răng đã rụng hết rồi, chỉ còn lợi "lợi trên" và "lợi dưới thôi." Sức khỏe, thì chờ ngày vào hủ. Ông bà ta thường nói "trời kêu ai nấy dạ" không nghe sao mà hỏi! Tớ đợi hoài mà chưa thấy ổng kêu, nên chưa dạ thôi, hay vì Tớ không đút lót, chạy chọt nên lượt sổ rồi!
-Thôi đi! anh đừng "dàn dựng" chi nhiều làm tôi thêm lo!
-Đó, Tớ nói có sai đâu, chị đã thâm liễm trong đầu óc rồi, qua Mỹ đã 20 năm rồi, mà còn dùng cái danh tư ø "mã tấu" nói là "dàn dựng" nghe lạnh đến tận hồn và lạnh thấu đến tận xương.
Ngoài hiên nhà, những giọt mưa thu mang nhiều giá lạnh, chàng kéo cổ áo ấm lên cao và đang nghĩ về cái chết của người bạn đêm qua chàng đến tiễn đưa. Cái chết không phải nơi quê mẹ, cái chết trên miền đất tha hương, cái chết cô đơn không bóng người thân. Đôi mắt người nằm xuống đang mở trừng trừng còn chứa chan dòng lệ không chịu nhắm, như có một điều gì oan nghiệt chưa nói được với người ở lại.
Chàng chỉ có đôi lời cuối cho bạn, tao không có gì cho mầy, và tao không có gì cho tao, không biết tao đang khóc cho mầy hay đang khóc cho tao!
Dù hôm nay tao không còn đất đứng! nhưng tao cũng lấy càn ba nắm đất, bỏ xuống mồ lần cuối cho mầy, mong sưởi ấm tình bạn khi vĩnh viễn chia tay, đó là thủ tục cuối cùng của một đời người.
Rồi một ngày nào đó tao cũng ra đi, biết có gặp được lại mầy hay không, nếu ở "Cõi Âm" thì chắc là chỗ "cưa hai nấu dầu". Mầy có biết vì sao tao đến chỗ nầy" Tao hỏi rồi tao tự trả lời thế cho mầy, vì ở trên dương gian tao ác độc quá! Đó là định luật "vay phải trả" "ác lai thì ác báo". Hay may mắn lắm thì tao ở "Cõi Thiên" thế thì sung sướng biết bao, khỏi phải "đăng ký tạm trú tạm vắng" khỏi phải "đút lót chạy chọt" nơi có "trà dư tửu hậu" được xem Hậu Nghệ Hằng Nga múa vũ khúc "Nghê Thường". Thôi nhé, Vĩnh biệt mầy"!
Từ ngày đất nước đổi chủ thay ngôi, Tớ không là công dân hạng hại, nhưng là công dân hạng thứ "en nơ"ø. Nói về nghĩa tình huynh đệ nơi thôn xóm, theo lối xưng hô lễ nghĩa, "địa vị" Tớ lên như diều gặp gió, từ chú đến bác rồi đến ông, sau cùng là cụ.
Tớ biết thân phận héo úa, "một mình, mình một bơ phờï" rất ngại khi nhờ cậy đến kẻ khác, cho dầu đó là người trong thân tộc chăng nữa.
Trong gia đình, chàng tự xem mình như một thứ ông 'từ 'đặc biệt, Ông 'từ' nơi đây không phải là ông 'từ ' ở chùa lo nhang khói, đánh chuông công phu gõ mõ, mà là ông "từ " rửa chén quét nhà "không xay lúa cũng phải bồng em". Chàng nghĩ "Con tằm đến thác cũng còn giăng tơ" chàng không làm được việc lớn, thì cũng làm được việc nhỏ, chuyện lặt vặt trong gia đình giúp vợ con đỡ một tay. Biểu hiện nơi tình chồng nghĩa cha con, nơi tuổi đời xế bóng.
Một hôm, có bạn đến chơi, Chàng hỏi:
- Anh ở nhà có rửa chén không"
- Tuần lễ 7 bữa, tháng 30 ngày đều rửa chén hết!
- Thế thì, Tớ hơn bạn rồi!
- Hơn gì"
- Rửa xoang! Lau nhà!
Mái tóc đầu chàng, đã đến lúc "muối nhiều hơn tiêu." Người ta thường nói "đầu đã hai thứ tóc" mà như con nít, câu ấy đã trở thành lạc hậu lắm rồi. Vì ngày nay không những chỉ có hai loại tóc trắng và đen như mấy người già. Nhưng giới trẻ lại hơn già, đầu có "ba lai" tóc. Độc nhất "Đầu Vàng" "Đầu Nâu" "Đầu Xanh" đặc biệt hơn còn thêm kiểu "Đầu Rìu" "Đầu Đảng" v.v..
Nhân loại văn minh thời đại điện toán, quả đất bị thu hẹp dưới mười đầu ngón tay, bấm nút là biết tất cả, ngay cả "chỗ kín" con người cũng không còn che giấu được. Vì thế cách trang phục nơi người cũng từ đó theo phép tịnh tiến của thời gian.
Đến nỗi vợ chàng hay than phiền rằng "ông mua quần áo lộn rồi không chịu xem, mua lầm đồ đàn bà rồi đem đổi lại đi mà mặc" chàng nói "chứ bà không thấy đàn ông đeo hoa tai sao, mà bảo tôi lộn với không lộn"
Đời chàng hôm nay như bóng hoàng hôn, chàng an phận không lo nghĩ, con cái ở tứ hướng mười phương, không mấy khi gặp con đầy đủ. Chàng viết chúc thư để lại các con, nhỡ khi "Trời kêu phải dạ" ra đi mát mái xuôi chèo.
"Ba chẳng có tài sản gì để lại cho các con, ba chỉ có 3 quyển sách viết để lại không ngoài mục đích nói lên cuộc sống thăng trầm của đời ba, được trải dài từ thời niên thiếu đến cuối cuộc đời. Mặc dầu ba không phải là văn sĩ hay thi sĩ, tâm sự đời ba được gói trọn trong ấy. Hãy để gối đầu 3 quyển sách ấy, với tấm ảnh chân dung của ba lên bàn thờ. Nếu có ai đến thăm ba, các con hãy thay thế ba viết vài chữ vào sách mà tặng."
Ba mong các con sống hòa thuận trong tình thương yêu tương kính, và xem "anh em như thể tay chân". Ba muốn yên bình ra đi, một thứ yên bình không muốn phiền hà đến một ai! Đừng phân ưu, phân trần, hay cáo phó, cáo tri. Đừng thỉnh thầy, mời cha đến tụng đọc kinh hay làm phép.
Qua năm tháng bạc màu, với tất cả lặng yên hầu như câm nín, và tất cả những điều dặn trên, vì ba không đặt niềm tin vào sự mầu nhiệm nơi nghi lễ. Ba chỉ tin vào tấm lòng giữa người và người, nhất là người có cùng chung tiếng nói Việt Nam, có còn chân thành đối xử với nhau như "người trong một nước phải thương nhau cùng " hay không!
Trà Khan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,777,227
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông nhân dịp Fathers Day.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo từ nhiều năm qua, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Bài viết mới của Tịnh Tâm là một truyện ngắn nhân ngày Fathers Day sắp tới.
Tác giả sinh năm 1944, định-cư ở Mỹ năm 1979, sống ở California 25 năm với nghề điêu khắc gỗ. Một số tượng điêu khắc gỗ cỡ lớn hiện đang toạ lạc trên đường phố và nơi công công của các thành-phố Seaside, Monterey, và Los Gatos tại California là công trình của ông Tú.
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009 và đây là bài viết thứ ba của ông, tự sự của một cựu chiến sĩ về quê cũ tìm thăm mộ đồng đội cũ. Tác giả cho biết ông sinh tháng 10/1939. hiện là cư dân Houston, Texas. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang.Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư ở Mỹ.
Tác giả cho biết ông sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu và an cư tại Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008 và đã góp nhiều bài viết giá trị. Mừng tác giả trở lại trường học và mong ông viết thêm.
Ngày này, tuần tới sẽ là Fathers Day. Nhân dịp này, mời đọc bài viết mới nhất của Cam Li. Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoạ - hiện có trên trang mạng: http//tuoihoahatnang.com. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô góp cho giải thưởng Việt Báo nhiều bài viết giá trị và nhận giải vinh danh Tác Phẩm Xuất Sắc, Viết Về Nước Mỹ 2010.
Đây là bài thứ ba của Lê Thị. Tác giả 35 tuổi, cư dân Chicago. Trong email kèm bài đầu tiên, Lê Thị cho biết, "Mới đây, sau khi đọc một số sách của nhà văn Nhã Ca, tôi bỗng có cảm hứng muốn viết và đây là bài viết bằng Việt ngữ đầu tiên của tôi trong 20 năm qua." Với hai bài “Tôi Vẫn Là Tôi” và “Đâu Đó Có Chỗ Cho Chúng Ta” kể chuyện tình đồng tính, Lê Thị hiện dẫn đầu số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ trong 30 ngày qua. Bài viết mới làm bật lên sức quyết định của “hơi ấm gia đình” đối với những lựa chọn sinh từ trong tình huống tuyệt vọng, đồng thời cho thấy sức viết mạnh mẽ của tác giả.
Tác giả là một nhà văn, nhà báo, đồng thời cũng từng là nhà giáo, nhà hoạt động xã hội quen thuộc với sinh hoạt văn hóa truyền thông tại quận Cam.Ông đã góp nhiều bài giá trị và từng nhận giải danh dự viết về nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả với tên thật Nguyễn Thị Hữu Duyên gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Vẫn trong tinh thần ấy, bài mới của bà là chuyện của mùa Fathers Day.
Tác giả là một nhà thơ, sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông tiếp tục làm thơ và góp nhiều bài tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên.
Nhạc sĩ Cung Tiến