Hôm nay,  

Đông Chí

22/11/201100:00:00(Xem: 738257)

Đông Chí

Tác giả: Phan

Bài số 3413-12-2873vb3112211

Tác giả là một nhà báo quen biết tại Dallas, từng trong nhóm chủ biên tuần báo Trẻ và hiện đang bận rộn thêm với tờ Thời Báo Dallas. Ông góp bài đều đặn và từng nhận một giải danh dự. Giờ mùa đông đã bắt đầu, mời đọc bài về tiết đông chí.

***

Những lọn gió tàn thu rít ngọn cây vặt lá, lão Tự vặt tờ lịch Đông chí, không vứt vô sọt rác như thường ngày. Tờ lịch Tàu qua Mỹ đã bao năm vẫn tèm lem như in ở Chợ lớn ngày nào. Không biết bao giờ người ta mới biết quý trọng ngày tháng!

Ngày tháng là thời gian. Có người Việt nào bỏ phí thời gian đâu, còn tờ lịch là tờ giấy, ghi ngày tháng, cho con người đừng lãng phí thời gian. Lão lẩn thẩn đi lau cái kính bụi mờ sau cả tháng không dùng tới, bệnh lần này không đơn thuần thời tiết như mọi năm, sự buồn chán đã dâng lên đến óc, ối ra mắt mờ để thấy vạn vật chết từ trong mắt. Cái kính đã được vợ lau chùi từ hôm qua, khi lão hỏi: Cái kính tôi đâu, sau một tháng lão nằm liệt giường. Lão lãng phí một đời vô dòng lịch sử, mà tiếc gì một đời người với lịch sử dân tộc rỉ máu trên xương khô. Dạo này lão sến tới ớn mình, sến chảy nước.

Hôm qua ngóc dậy được trước bình minh là chuyện phi thường, lão đã dùng buổi sáng thanh tịnh từ đất trời tới lòng mình để ra vườn cắt mấy mụ hồng còn sót lại tả tơi. Mới đầu, lão không chấp nhận được hình ảnh hoa hồng xơ xác, hoa hồng là phải đẹp, không có hoa hồng tàn, đừng để thế gian này phải thấy những cánh hồng tả tơi, đau lòng người ái mỹ. Thế mà lão lại đem mấy mụ hồng sứt càng gãy gọng vô nhà, cắm vô bình pha lê, lão trở thành người độc ác sau cơn bạo bệnh, ác nhất là tặng vợ bình hoa hồng héo. Không ngờ cuối đời người ta cạn đức. Chả hiểu sao lại lọt sổ Diêm vương nên vất vưởng thêm mùa đông này, tìm hoài không ra ý nghĩa nào khác hơn là sống chi cho chật đất.

Trước hôm lão nằm liệt giường, lão thường ngồi nhìn lá thu phai ngoài sân sau nhà. Lão thích ngồi ngoài trời, chỉ cách một khung cửa mà bên ngoài là không khí tự do, bên trong là máy điều hoà không khí. Sự can thiệp nào cũng có cái giá của nó,”bố mày đau nên mẹ mở máy hít sớm, con mày lớn hơn bố mày à!”Thế là con gái đưa cháu ngoại đi bé bi sít, không gởi ngoại nữa, vẫn trả tiền bé bi sít để bố mẹ có đồng chi tiêu. Lão để bụng sự bố thí lễ phép ấy suốt cả tháng nay. Sáng nay bình tâm thấy thẹn. Oâng bạn già đến quên mình tuổi con gì, ghé thăm lão hôm trước, đã kể khổ xin con chút tiền tiêu vặt mà chẳng đứa nào cho. Con lão tìm cách cho tiền cha mẹ còn trách khứ gì. Lão ngồi yên đôi vai nhưng lồng ngực hằn học thời tiết và sức khoẻ, nghe máu chảy về tim lề mề như ký ức lười biếng. Cả đời sống thừa chứ đâu phải cuối đời mới thừa. Lão nhớ ra nhiều chuyện từ thời cố hỷ cố lai…

Nhớ sao mà nhớ những điều xa lắc xa lơ từ kiếp nào. Lão muốn viết lại ký ức để giải khuây chứ có gì đáng kể về một người nói ra tên tự người ta còn không biết. Lão vào nhà, chọn đại cuốn vở trắng trong ngăn kéo. Cuốn vở này sẽ viết được chừng hơn ba ngàn chữ viết tay, nếu chia ra cho bảy mươi năm thì mỗi năm cuộc đời phải gói gọn trong năm mươi chữ viết. Những năm đầu đời sống dậy kỷ niệm với bản làng, gia đình, bạn nhỏ…làm sao viết kịp ký ức trào tuôn…lão giận bàn tay chậm chạp như con nít tập viết lớp vỡ lòng, chỉ hai chữ”dòng sông”cánh tay, bàn tay đã mỏi nhừ, ký ức bay biến theo lời mời cơm trưa. Lão trả lời cộc lốc:”Tôi không đói.”Người vợ nín lặng từ bao giờ không nhớ nữa, hình như sau khi lão đi tù về, vợ lão mất khả năng trò chuyện bình thường, chuyện vui mất tích, chuyện buồn không than, chuyện thường ngày máy móc từng công đoạn. Bà ấy là cái máy nhắc: Uống thuốc chưa" Đói chưa" Lạnh không" Không ngủ được à"... hoá ra lão ra tù có đã hai mươi năm hơn, bà ấy vào tù cùng ngày, nhưng vẫn chưa ra. Người tù khổ sai chung thân, không ăn chay vì đời đã dư khổ hạnh. Chắc không ai hiểu điều này hơn lão, lão muốn nói, muốn chia sẻ với vợ, nhưng miệng xin ly trà.

Ly trà nóng, thơm gừng được bưng tới.”Oâng uống ly trà gừng tốt hơn trà xanh.”Từ hôm nằm liệt giường, lão mới biết tới loại trà bà đẻ này, không có gì hứng thú với niềm tin khác phái. Bệnh đàn bà không cần thuốc gì ngoài niềm tin trị liệu, nên họ sống ngon chết ngọt. Lão không cãi lời từ đây để được chết êm như đàn bà. Chị lão vừa qua đời không lâu ở tuổi bảy mươi vì thuốc thang và trà gừng. Niềm tin mãnh liệt tới để lại những bài thuốc giết người của bọn Tàu cho người em dâu là vợ lão. Đầu óc lão thanh thản khi tìm ra được giải pháp cho những xung đột giữa người bệnh và người nuôi bệnh. Vợ lão đã bắt đầu đi vào tuyện lộ từ hôm mua cái siu sắc thuốc. Lão vui vẻ uống cạn để mãi mãi bên nhau.

Lão quay lại công việc đang làm, công việc ngẫu hứng của hôm nay, phút hồi dương của những thang thuốc không bao giờ tin được. Suốt thời thơ ấu của đời lão chỉ viết được hai chữ”dòng sông". Ít nhất là từ khi có trí nhớ đến khi đi trường làng cũng vài năm, khoảng hai trăm chữ rút gọn còn hai chữ. Lão sửa”dòng sông”thành”dòng nhớ". Dòng nhớ mê man trên những cánh đồng, bờ đê, khúc sông hiền hoà, giận dữ không báo trước. Sân gạch nhà ông thầy dạy viết chữ Nho bằng mực tàu…Mẹ lão, người vợ thứ hai của người cha mịt mù trong trí nhớ. Người vợ cả của cha lão là người đàn bà từ tâm. Bà không có con trai nên đi cưới mẹ lão cho cha. Bà thương mẹ lão như chị em trong nhà, cưng lão đến độ chỉ vì để chân lão đạp phải bãi phân gà trên sân mà người vú em bị mất việc. Người ngày xưa tốt thế, bà vú bị đuổi đi làm ruộng chứ không cho ở nhà trông em nữa. Nhưng cuối ngày ruộng nương, bà thể nào cũng có quà cho lão sau một ngày đồng áng. Khi cái kèn bằng lá quấn, thổi te te. Hôm về muộn cũng cho lão con đom đóm đựng trong hộp đan bằng lá…Những người tốt chết cả rồi, từ khi đời lão không còn trong vòng tay của những người thương yêu lão vô điều kiện. Đời lão chỉ còn điều kiện chứ hết yêu thương. Một quãng đời đẹp đẽ gói gém trong”dòng nhớ", là lòng biết ơn chân thành của lão.

Lão bằng lòng với thời thơ ấu là”dòng nhớ". Những năm rong ruổi dậy thì mộng mơ, tập tành đàng đúm, trêu gái với bạn bè, không thể nào viết năm mươi chữ cho một năm, gồm đầu xuân lễ hội, sang hè vui chơi, nhớ mong…vào thu nhập học, gặp lại nhau ngỡ ngàng. Biết bao gương mặt không có tuổi, còn trong ký ức. Cái Thoa xinh đẹp đến mấy mươi năm trong thương nhớ của lão, cái Thoa chết trước lão từ hôm vô nhà thương thăm lão. Đi đứng còn mạnh khoẻ hơn lão, nhu mì, đoan trang vẫn vậy. Nhưng chỉ là một mẹ Thoa của con bà ấy, cái Thoa của lão đã chết sau mấy mươi năm đẹp đẽ trong thương nhớ vô bờ của lòng lão. Lão đặt bút viết về đêm Giáng sinh có máy bay của Tây nhả đạn xuống giáo đường. Lão với cái Thoa chạy trốn dưới căn hầm của nhà thờ tối om. Chưa bao gần nhau đến thế, đến nghe được hơi thở, tiếng thì thầm bên tai lão. Sao đạn máy bay lại rót vào người sợ hãi để khóc than mà không rót vào tình yêu đầu đời của lão để trở thành bất tử. Cả đời lão chôn sâu mối tình vô vọng và người ấy có hy vọng gì không mà cuối đời mới đến thăm lão.

Lão sẽ viết về cái hôm, cái Thoa theo gia đình đi Nam, cả Hà nội sụt sùi trong mắt lão. Sau đó, gia đình lão cũng đi nam. Riêng lão đi tìm trong vô vọng. Ngày lão dứt áo thư sinh vào quân ngũ, bao nhiêu người tiễn đưa vẫn thiếu một người để tâm khảm dạt dào luyến nhớ thành đô, những nỗi buồn vô vọng nơi đèo heo hút gió. Chuyện tử - sinh cách nhau một làn đạn…làm sao năm mươi chữ gói gém hết một năm gian khổ, hiểm nguy, vui mau, buồn dài theo mưa rừng, lạnh núi…không thể, không thể nào viết năm mươi chữ cho một năm biến động từng ngày, mà đời lão có nhiều năm biến động. Rồi chiến tranh mịt mù, vác ba lô lên đường không biết địa danh, đi theo quán tính di chuyển liên tục làm người ta mất khả năng cảm nhận sự rời xa chỗ này, cảm giác đặt chân đến chỗ kia…không thể, không nào năm mươi chữ ghi lại được một năm hành quân liên miên trong nỗi nhớ khôn nguôi. Năm mươi chữ càng không ghi lại được một năm sau khi giã từ vũ khí. Những lao đao tận cùng với sĩ diện và cái bao tử trong trại tù. Những hành tung bất tận của cơn đói làm người ta thức trắng, nhai khống mùi hương ký ức đến hao gầy.

Chiến tranh và hoà bình làm mất mạng không tiếc bằng mất liên lạc là mất hết. Lão chẳng còn gì ngoài lời thỏ thẻ bên tai là nhựa sống cạn dần trong xác thân mòn mỏi. Hôm tưởng lão về trời nên người cũ đến chia tay lần cuối. Hoá ra chỉ là mê sảng từ cơn sốt. Giá gặp lại nhau một lần trước khi nhắm mắt cũng không tiếc. Lão buồn hơn thời tiết xám ngoét ngoài kia, lão chìm vào cơn mơ dĩ vãng. Lão chết trong căn hầm nhà thờ, trong tiếng máy bay tây gầm rú trên bầu trời Giáng sinh. Nhưng biên bản cảnh sát Hoa Kỳ ghi là lão chết trên chiếc ghế bành, tại nhà. Biên bản của bác sĩ trên xe cứu thương ghi là lão chết vì nhồi máu cơ tim. Đến cái chết cũng không được ghi nguyên do đúng đắn. Chỉ có người nhặt tờ lịch đông chí trên nền nhà biết lão chết hôm nay.

Phan

Ý kiến bạn đọc
30/11/201103:59:03
Khách
Dấu hình vuông trong bài viết theo tôi biết là những câu tác giả viết trong dấu ngoặt kép hay đơn nhưng khi vào internet lại thành dấu hình vuông. Hy vọng là tôi không sai. bài viết rất hay.
30/11/201104:05:03
Khách
Dấu hình vuông trong bài viết theo tôi biết là những câu tác giả viết trong dấu ngoặt kép hay đơn nhưng khi vào internet lại thành dấu hình vuông. Hy vọng là tôi không sai. Bài viết rất hay.Cám ơn tác giả

=================
Bác Lệ Hoa w. nói trúng rồi,

VNI dùng cái nút double quote bằng một dạng character đặt biệt không nằm trong bộ code bình thường nên khi chuyển từ VNI sang Unicode sẽ bị vấn đề, làm đúng thì phải chuyển cái code double quote của VNI thành dấu double quote bình thường trước, sau đó mới chuyển bài viết từ VNI qua Unicode thì sẽ không bị tình trạng này (dấu double quote này của VNI là một khoảng trắng nên nếu convert cái khoảng trắng thì bài viết sẽ rất là lung tung) vì hiện nay trong tòa soạn vẫn còn dùng VNI để layout báo nên khi convert bài viết hàng ngày qua unicode nếu người làm công đoạn này không biết làm công đoạn chuyển dấu double quote của VNI qua ký tự bình thường thì khi ra unicode nó sẽ có mẫu tự hình vuông.

VB Admin
26/11/201104:23:47
Khách
Tôi không hiểu tại sao trong các bài viết có các dấu hình vuông?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,524,159
Tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và thêm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt từ năm 2000 cho tới nay.
Tác giả quê gốc Kinh 5 Rạch Giá, hiện là cư dân Seattle, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010. Ba bài đã viết là chuyện 30 năm của gia đình bà: Vượt biển tới đảo tị nạn, sau 7 năm chờ đợi, bị buộc phải hồi hương. Nhờ chương trình ROV, gia đình vẫn tới được nước Mỹ, và với sức phấn đấu chung, tất cả đã đứng vững.
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên 2001 và đã liên tục góp bài. Sau nhiều năm tham gia ban tuyển chọn, từ 2018, Trương Ngọc Bảo Xuân hiện là Trưởng Ban Tuyển Chọn Viết Về Nước Mỹ. Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung. Với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông nhận giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả tên thật là Trần Văn Hai, hiện đã là cư dân hưu trí tại Nashville, TN. Thư kèm bài, ông viết: “Tôi thường xuyên theo dõi và đọc bài viết trên trang Việt báo online. Đây là bài viết tôi gởi về cho tòa soạn đầu tiên, mong nhận được sự góp ý. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là bước khởi hành tốt: gọn nhẹ, giản dị và thành thực. Saui đây là bài viết thứ hai.
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ năm 2010. Ông là một Linh mục Dòng Truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh dòng Chicago. Nhiều năm qua, ông lãnh việc truyền giáo tại Alice Springs, Northern Territory, vùng sa mạc đất đỏ Úc Châu. Từ 2016, nhiệm sở truyền giáo mới của Linh mục là một thành phố vùng cao nguyên Tagaytay,Philippinnes. Truyện ngắn sau đây của tác giả, trích báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi. Bài đăng 2 kỳ.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Sau đây là bài viết thứ tư của cô.
Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014, ông tên thật Trần Phương Ngôn, đã sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm, hiện là cư dân Dayton, Ohio. Sau đây, thêm bài viết đầu năm mới Kỷ Hợi của ông.
Trước 1975, tác giả là một hạm trưởng hải quân VNCH, sau đó là 10 năm tù cộng sản. Ông định cư tại Mỹ theo diện H.O., dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, đã nhận giải bán kết 2001, thêm giải Việt Bút 2008. Từ hơn 10 năm qua ông là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, và vẫn tiếp tục góp bài mới. Sau đây là bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi.
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia. Ông góp bài Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua và đã ấn hành 4 tập truyện ngắn. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật truyện của Phạm Thành Châu đã phải kêu là “Tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế.” Sau đây, thêm một truyện ngắn Phạm Thành Châu.
Nhạc sĩ Cung Tiến