Hôm nay,  

Tàu Đêm Ba Mươi Tháng Tư

02/05/201200:00:00(Xem: 200282)
Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả dành cho giải thưởng năm thứ 12 là “Chuông Gọi Mẹ Thương” đã phổ giến vào dịp Mother's Day 2011, Chủ Nhật 8-5-2011. Mới đây, ông có thêm 2 bài viết mới, trước hết là một chuyện kể về con tầu vượt biển đúng vào một đêm 30 Tháng Tư. Bài còn lại sẽ phổ biến sau.

Thời hạn dành cho bài Viết Về Nước Mỹ hàng năm kết thúc ngày 30 tháng Tư, nhưng như mọi năm, số lượng bài đã góp trước ngày này vẫn chưa thể phổ biến hết. Do đó, từ hôm nay, Việt Báo tiếp tục phổ biến thêm những bài dành cho năm 2012.

Một nhóm bạn hữu ở vùng xứ lạnh Hoa Kỳ họp nhau mỗi năm, ngày 30 tháng 4, để cùng nhau hồi tưởng những kỷ niệm của ngày buồn này. Mỗi người phải kể một chuyện của mình hay của bạn mình có liên quan đến 30 tháng 4. Nhiều năm họp mặt trôi qua, đề tài có vẻ cạn.

Anh Bá, chủ nhà và cũng là người trưởng nhóm, đề nghị:

- Thôi các anh chị ơi! Năm nay nữa đã hơn ba mươi năm rồi, kỷ niệm thì quá xa vời và cũng không có gì êm đềm mấy. Hay là chúng ta tạm gác qua các hồi ký lẩm cẩm đó để cho buổi hát Karaoke đêm nay có đủ thì giờ và nhiều hào hứng?

- Đâu được, chị Hoa, dáng người to lớn, lên tiếng phản đối. Đó là những kỷ niệm rất khó quên và giúp cho chúng ta thành bằng hữu ngồi chung đêm nay mà!

- Không sao! Chị Thanh, người trầm tĩnh lên tiếng. Để tôi kể cho nghe một chuyện "ba mươi" có thật trong đời tôi, nó tương đối nhẹ nhàng và êm đềm các bạn ạ.

- Thôi được, anh chủ nhà cười chấp nhận, miễn là câu chuyện phải ngắn gọn và đừng đau thương quá nha!

Chị Thanh, khoảng lục tuần, cất giọng kể chậm rãi nhưng không thiếu phần linh hoạt, tự tin:

"Tàu chúng tôi lênh đênh trên biển Đông đã mười ngày, thời gian tương đối ngắn so với thời gian dài ròng rã, gian nan của các cuộc vượt biển bằng thuyền khác. Tôi cũng xin bỏ bớt các chi tiết dài dòng khác của cuộc chuẩn bị, nào là việc ông nhà tôi về quê mua tàu, sửa sang, mướn tài công, nào là ông ấy bị vây bắt nhiều lần, nhưng đều thoát nạn trong đường tơ kẻ tóc. Chúng tôi dùng ghe nhỏ ra được ghe lớn ngoài khơi, phần lớn là nhờ may mắn, chớ không có tài ba gì hơn các bậc tiền bối cả.

Một điều may mắn nữa là lúc ra khơi, ông nhà tôi có một quyết định nông nỗi là định bỏ xuống biển động cơ cũ cho ghe nhẹ đi, chỉ dùng động cơ mới. Một người khách kinh nghiệm ngăn chận được. Quả nhiên, ghe chạy với động cơ mới không hiểu vì lý do gì đã "tắt ngủm" chừng một giờ. Chúng tôi phải thử căng buồm nhưng cũng không xong: ghe bị nghiêng quá nhiều theo chiều gió; lái thuyền buồm cũng phải có kinh nghiệm. Cuối cùng chúng tôi nhờ máy nhỏ, cũ mà chạy được đến ngày thứ mười.

Sự đời được cái này mất cái kia. Bà nội các cháu rất cẩn thận, chuẩn bị lương thực mang theo cả tháng, phòng khi ghe bị lênh đênh vật vờ trên biển cả. Nhưng vào giờ chót, chúng tôi lại quyết định bỏ bớt thực phẩm vì sợ trọng tải quá nặng không kham nổi với số người đi. Thành thử tới ngày thứ 8, 9 là cả đoàn tàu bị đói lả và mệt...

- Còn có bị hải tặc nữa không? Chị Hoa nóng lòng ngắt lời hỏi.

- Dĩ nhiên cũng như bao nhiêu tàu vượt biên khác, tàu chúng tôi bị bọn cướp biển đến ba, bốn lần lúc tàu dừng nghỉ tại gần một vùng biển gần chân núi, có nhiều tàu hải tặc chực sẵn mà chúng tôi không biết để tránh. Nhưng may mà chúng chỉ cướp của, còn tính mạng và danh dự của đoàn tàu thì không sao.

- Tới ngày thứ mười, chị Thanh tiếp tục câu chuyện, ghe chúng tôi mới bắt đầu thực sự gặp nạn. Ghe tôi tuy lớn nhưng vẫn là ghe cũ được sửa lại, nên không chịu nổi bao nhiêu đợt sóng và cuối cùng có vài vết nứt, nước bắt đầu chảy vào. Toàn bộ thanh niên trên ghe được động viên tích cực tát nước ra để ghe khỏi chìm. Giữa lúc đó, tình hình càng tệ hại hơn vì biển bắt đầu động và ghe tôi lạc vào một vùng biển nước đen ngòm mà nhiều người đi biển kinh nghiệm trên ghe nói là vùng biển sâu và nguy hiểm nhất.


Tới lúc ngày tàn, đêm xuống là cả ghe đã kiệt sức, phần thiếu dinh dưỡng, phần phải chống cự với các cơn sóng thịnh nộ của biển cả.

Tôi cũng đã quá mệt mỏi và lo lắng, tay còn đang ôm đứa con trai út mới hai tuổi và một bầy con nhỏ dại bên cạnh. Bỗng tôi nghe có tiếng lao xao trên boong ghe, tiếng của nhà tôi và các thanh niên đang bàn tán có ánh đèn của một chiếc tàu đằng xa mà có vẻ không phải tàu cướp vì tàu này nằm bất động. Sau một lúc nghe ngóng nhà tôi quyết định cho ghe tiến tới ánh đèn tàu kia. Chúng tôi cũng không mấy hy vọng vì trước đây đã gặp nhiều tàu dầu, họ chỉ cho lương thực và bỏ đi.

Ghe chúng tôi cuối cùng cũng từ từ tới gần chiếc tàu lớn thì bỗng tôi nghe một tiếng nói từ loa phát ra, mừng nhất lại là tiếng Việt Nam, giọng đàn bà:

- Đây là tàu bạn, không phải tàu cướp, xin cô bác cho ghe chạy thật nhanh đến chúng tôi. Cô bác chỉ còn năm phút nữa, nếu không kịp có thể bị tàu Mã Lai kéo đi!

Chúng tôi giật mình, luýnh quýnh, nhưng cuối cùng đã tới sát tàu lớn nhờ các chiếc ca nô nhỏ của tàu lớn hướng dẫn chúng tôi đến nhanh. Vừa lúc đó, tàu thả ngay dây xuống để kéo chúng tôi lên tàu. Riêng tôi cũng như các phụ nữ, người già hoặc các em bé được các người cứu trợ cho bám vào để được đưa lên.

Các anh chị ơi, chị Thanh cất giọng kể cao lên, nhìn thẳng vào bạn bè chung quanh như sắp bày tỏ một tâm sự gì, một khúc quanh của câu chuyện, cái dây tàu từ từ kéo người cứu trợ và tôi lên. Lúc đó tôi nghe có một cảm giác gì, dù đang mệt lả, thanh thoát, vươn lên. Dây thừng được kéo chậm vì lý do an toàn, tôi nôn nao định ngửa mặt lên để xem đó là tàu gì, ai là ân nhân cho mình và cả đoàn tàu. Tôi chưa thấy những điều muốn thấy mà vô tình lại thấy cả một bầu trời đêm vĩ đại nhìn từ giữa biển cả mênh mông. Đêm ấy là đêm gì mà trời đẹp quá! Cả một màn đêm điểm ngàn sao trời lấp lánh, nghe sao mà huyền hoặc và tôi cảm thấy đâu đây như có một bài thánh ca an ủi mà Thượng Đế ban cho kẻ gặp nạn trong giây phút linh thiêng này.

- Chị chắc có đạo? Chị Hoa hỏi.
- Dạ phải, nhưng chỉ "đạo theo" đạo chồng, nhưng tới giờ phút đó thì một niềm tin mãnh liệt đã ấp ủ vào lòng tôi...

- Khi lên được trên tàu, chị Thanh kể tiếp, tôi và các cháu được tiếp đón và săn sóc rất ân cần, đầy tình nhân loại. Họ khám bệnh chúng tôi rất cẩn thận, cho ăn uống đầy đủ, còn nói chúng tôi muốn ở lại tàu bao lâu cũng được, đến khi khỏi thì sẽ điều đình với Mã Lai để cho chúng tôi tới đảo định cư. Tới lúc hoàn hồn, tôi mới được biết tàu đã cứu tôi là tàu bệnh viện "Ile de Lumière" của Pháp, nhưng những người tình nguyện làm việc là những bác sĩ, y tá... đến từ khắp nơi trên thế giới, kể cả hai tình nguyện viên người Việt.

Tôi cũng được biết một sự trùng hợp ngẩu nhiên rất thú vị là ngày tôi và đoàn người vượt biển của ghe tôi bước lên tàu "Ile de Lumière" là ngày 30 tháng 4; như vậy là đúng bốn năm sau 1975, chúng tôi lại có cuộc đổi đời lần thứ hai..."

- Cám ơn chị đã làm đúng lời hứa, anh Bá chủ nhà lên tiếng, đã kể một chuyện "ba mươi tháng tư" khá ngắn gọn và êm đềm.

- Và còn thú vị và thơ mộng nữa, thi sĩ Lương ngồi ở cuối phòng hớt lời. Thôi cho bắt đầu chương trình Karaoke ngay đi, anh Lương nôn nóng thúc giục.

Tiếng nhạc nền Tango của bản "Bóng Chiều Xưa" đưa mọi người vào một thế giới du dương, quên đi những đắng cay của năm tháng cũ.

Giang Thiên Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,389,371
Tác giả sinh năm1949, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991. Nghề nghiệp trước 75: dạy học. Công việc làm ở Mỹ: du lịch. Hiện đã hưu trí và là cư dân vùng Little Saigon, Westminster, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà năm 2013 là "Kock and Me / Vi trùng lao và Tôi." Sau đây là bài viết thứ bẩy của Bà.
Tác giả sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu, an cư tại Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008 và đã góp nhiều bài kể lại những sinh hoạt sống động. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2007 và rất có lòng với bạn hữu và giải thưởng Việt Báo. Cô hiện là cư dân San Francisco, làm việc tại thư viện của một trường trung Học.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2000, từng nhận giải bán kết và giải Việt Bút, hiện là thành viên Ban Tuyển Chọn Giải Thưởng Việt Báo. Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Bài viết mới nhất của ông kể về trường hợp một nữ tu trẻ gốc Việt phục vụ người nghèo trong vùng bão dữ ở Philippinnes hiện đang trong tình trạng thất tung, chưa biết sống chết ra sao.
Tác giả tên thật Nguyễn văn Hoa, sinh năm 1947 tại Quảng Bình, Việt Nam. Tốt nghiệp kỹ sư điện, học cao học và soạn luận án tiến sĩ kỹ sư (1970-75). Từ 1970 đến 1975 dạy đại học kỹ thuật tại Sài gòn. Năm 1975 định cư tại Hoa Kỳ, làm việc cho công ty tiện ích ở North Dakota cho đến năm 2012 thì về hưu.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006. Bài mới của cô là một truyện tình nhẹ nhàng, kèm theo lời đề tặng đặc biệt:
Nguyễn Cao Thăng là tên thật của tác giả, 52 tuổi, dân gốc Kinh 5 Rạch Giá, một cựu thuyền nhân, hiện là kỹ sư cơ khí của hãng máy bay Beechcraft tại Wichita, Kansas. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên ông là “Một Vòng 5,000 Miles” ký bút hiệu Thăng Nguyễn. Tiếp theo là bài “Đưa Cha Mẹ Già Qua Mỹ”. Sau đây là bài viết thứ hai.
Tác giả sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood Education (giáo dục nhi đồng) tại Chapman University miền Nam California hồi tháng 5, 2012 khi tròn 62 tuổi, đang volunteer tại một trường học ở Marysville trong khi chờ đi dạy.
Tác giả sinh năm 1956. Qua Mỹ tháng 10 năm 1994 cùng với gia đình theo diện HO.; Hiện sống tại thành phố Tacoma, tiểu bang Washington, làm việc cho một công ty thuộc ngành lâm nghiệp tại tiểu bang Washington, tham dự Viết về nước Mỹ từ đầu 2013. Sau đây là bài viết thứ sáu của cô.
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục, từng trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Bài mới là một du ký vui.
Nhạc sĩ Cung Tiến