Hôm nay,  

Niềm Vui Sum Họp - Nỗi Buồn Biệt Ly

15/06/201200:00:00(Xem: 232681)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông nhân dịp Fathers Day.






Ngày đó, ba tôi khăn gói lên đường trình diện đi học tập cải tạo muời ngày theo diện “Ngụy Quyền SàiGòn.”

Quân lệnh của Uỷ Ban Quân Quản t/p HCM rõ ràng là như vầy:


Ðối với các phó quận trưởng, trưởng ty, cấp úy, thì mỗi người phải mang theo giấy bút, quần áo, mùng mền vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong mười ngày kể từ ngày trình diện.

Với các cấp chỉ huy từ giám đốc trở lên, sĩ quan từ cấp tá, các dân biểu nghị sĩ, các lãnh tụ đảng phái thì thông cáo ra lệnh mang theo giấy bút, vật dụng cá nhân, số tiền là 13,000 đồng đủ cho việc ăn uống trong 30 ngày kể từ ngày học tập đầu tiên.

Ba tôi không phải quân nhân. Không là phó quận, hay trưởng ty gì cả. Ông làm chức Công Cán Ủy Viên bộ Liên Lạc Quốc Hội đặc trách công tác tại Phủ Thủ Tướng

Mới nghe qua ai cũng nghĩ ba tôi phải là cán bộ công chức cao cấp lắm của chính quyền Sài Gòn, nhất là sau năm 75 mỗi khi nói đến hai chữ” Ủy Viên”không ít người nghĩ ngay đến mấy ông ủy viên bộ Chính Trị của Hà Nội!

Trước hết, tôi không biết bộ Liên Lạc Quốc Hội là bộ gì, và chắc là cả thế giới chỉ có miền nam nước tôi là có cái bộ này. Còn Công Cán Ủy Viên đặc trách Phủ Thủ Tướng, theo lời ba tôi kể thì công việc của ông là mỗi khi Phủ Thủ Tướng có họp bàn chuyện gì liên quan đến quốc gia đại sự, ba tôi đại diện cho bộ Liên Lạc Quốc Hội tới tham dự ngồi phía dướì lắng nghe, và về viết bài tường trình lên cho Bộ trưởng.

Chỉ có vậy. Công việc có vẻ giống như một phóng viên nhà báo của chính phủ. Một chức vụ ngồi chơi xơi nước. Thử hỏi mỗi tháng phủ Thủ Tướng của ông Trần Thiện Khiêm họp được mấy lần cơ chứ?

Nhưng kẹt nỗi tính theo ngạch trật của công chức chính quyền thời đó, thì Công Cán Ủy Viên ngang hàng ty trưởng, hay Chánh Sở , Chánh Sự Vụ của mấy tỉnh. Vì vậy mà ba tôi bị liệt vào diện mười ngày.

Và kết quả của cái “mười ngày” này là …6 năm trời ở những miền rừng thiêng nước độc biên giới Việt-Tầu.

Nhưng cũng may nhờ cái mười ngày thành sáu năm này mà ba tôi lấy được cái vé HO4 định cư sang Mỹ năm 1990.

Tính từ khi ba tôi đi trình diện học tập cải tạo 1975, được thả về năm 81 thì tôi đã vượt biển, và ở Mỹ. Cha con tôi đã cách biệt 15 năm tròn.

Ngày đầu tiên sum họp gặp lại ba tôi sau hơn 15 năm xa cách.

Trên đường từ phi trường về nhà, tôi lái chiếc xe Van, ba ngồi ghế cạnh tài xế hỏi tôi c ó biết phi hành gia Phạm Tuân không? Tôi nói có nghe. Ba bèn kể cho tôi chuyện này:

“Đồng chí Phạm Tuân, phi hành gia đầu tiên của Việt Nam với đôi dép lốp đi vào vũ trụ. Sau chuyến du hành không gian với phi hành đoàn Liên Xô về đến Hà Nội và được toàn thể lãnh đạo nhà nước và báo chí đón tiếp trọng thể.

Tối hôm đó đêm sum họp, chị Phạm Tuân hỏi chồng trong tàu vũ trụ anh được phân công làm gì. Phạm Tuân mếu máo đưa đôi bàn tay nói “ Em ơi, đi cho có tiếng mà thôi. Có làm gì đâu. Anh ở trên tàu đụng tới đâu là chúng nó khẽ tới đó, không cho anh chạm vào cái gì hết nên tay anh bị sưng vù vù như vậy nè. hu hu!!”

Tôi nói “Ủa, ba đã học tập cải tạo 6 năm trời mà sao còn …phản động quá nha ”

Cả nhà tôi cười như pháo nổ.


Bây giờ thì ba tôi đã không còn nữa. Mười một năm trước ông đã ra đi về lòng đất lạnh. Nhưng tôi luôn nhớ đến mùa Xuân đầu tiên của gia đình sum họp.

Mùa Xuân năm đó, gia đình tôi ăn tết lớn vì lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, gia đình ba, mạ, anh chị em mới quay quần đầy đủ trên mảnh đất tự do này. Hôm cuối năm, ba và tôi đang cắm hoa bàn thờ ông bà. Biết tôi cũng viết lách lai rai, ông bèn ứng khẩu thử tài thằng con:

- Đối thử câu này: ra ngoài LỘ, hái LỘC đầu XUÂN

Tôi tên Thái, nhưng còn có tên ở nhà lúc nhỏ là LỘ. Thằng em kế tôi tên là DƯƠNG, và cũng có tên ở nhà là LỘC. Lại có nhỏ em tên XUÂN, và bà chị tên CẨM

Vậy là một câu ngắn, ba tôi nhắc tên của ba đứa con trong đó: LỘ, LỘC, và XUÂN.

Tôi suy nghĩ vài phút rồi đối lại như vầy

-Lên đỉnh THÁI , tiềm DƯƠNG thập CẢM

- Ba tôi cười khen

- Chưa chỉnh lắm, nhưng đối nhanh như vậy là cũng giỏi rồi.

Tôi biết là chưa chỉnh, nhưng cũng khoái vì tạm đỡ được chưởng đó của ba tôi.


Có những lần hai cha con ngồi nhâm nhi uống bia với nhau, ba tôi tâm sự ông không ngạc nhiên thấy tôi thích viết lách. Những ngày xưa trẻ, chính ba cũng rất tự hào về năng khiêú văn học của mình, nhưng vì không có duyên, hay nghiệp, nên ba không thể theo đuổi con đường văn chương như mộng ước. Sự nghiệp văn chương duy nhất của ba là một bài diễn văn ba được chính quyền tỉnh (?) ngày đó uỷ nhiệm viết để chào đón gia đình Hoàng Gia vua Bảo Đại và Hoàng Hậu Nam Phương trong một dịp kinh lý lễ lớn nào đó. Bài diễn văn này đã được đăng báo sau đó.

Tôi hỏi ba còn nhớ không, ông cười đã quên rồi, chỉ còn nhớ một chút là đoạn đắc ý nhầt vì ba dùng hai chữ “chan hòa” rất hay. Lúc đó ba tôi có đọc lại nguyên câu văn có hai chữ “chan hòa” này, nhưng bây giờ đã hơn hai mươi năm, tới phiên tôi quên mất câu đó rồi.

Đang nói về vua Bảo Đại, ba cao hứng kể tiếp tôi nghe một chuyện liên quan đến ông vua này mà có lẽ rất ít người biết tới,

“Một hôm vua Bảo Đại cùng vài cận thần vệ sĩ thân cận đi câu cá trên sông Hương. Ngài chỉ muốn thưởng thức thú vui câu cá như một ngưòi bình dân thường nên chuyến đi lặng lẽ không ai biết. Ra đến giữa dòng, khi vua Bảo Đại đòi hút thuốc, mới khám phá ra là Ngự tiền thị vệ …quên mang thuốc lá tây cho nhà vua. Tội này không phải nhỏ. Không bay đầu chứ bay chức như chơi, nhưng cũng đành phải thú thực với ngài mà thôi.

Vua Bảo Đại không nói gì bước ra tới đầu thuyền có anh lính đang hút thuốc, ngài hỏi…xin một điếu. Anh lính sợ hãi nói anh đang hút thuốc vấn CẨM LỆ, loại thuốc lá bình dân rẻ tiền nên không dám dâng lên ngài thượng. Vua Bảo Đại thản nhiên lấy thuốc Cẩm Lệ và nói “Ri là nhứt rồi. Chơ mi tưởng tau đòi vàng mới hút hay răng?”

Và trong suốt buổi câu cá, vua Bảo Đại tiếp tục hút thuốc vấn Cẩm Lệ xin của người lính.

Một thời gian sau thật lâu, khi vua Bảo Đại không còn tại vị nữa, câu chuyện này mới kể lại, chứ việc vua phải xin thuốc của lính hút đâu thể lưu truyền trong dân gian được. Lúc đó trên thuyền trên dưới chục người. Chuyện này đổ bể là có kẻ…mất đầu á.



Tôi không có nhiều kỷ niệm với ba như là với mạ.

Những ngày tôi còn thơ, ba luôn luôn vắng nhà. Thời loạn lạc của cuộc chiến Quốc - Cộng, ba tuy là bên dân sự hành chánh, nhưng thường phải nhận nhiệm sở những nơi xa xôi địa đầu giới tuyến không được an ninh, nên ba thu xếp cho gia đình mạ con tôi ở lại thành phố, những nơi an toàn hơn.

Chiến cuộc chấm dứt, ba đi cải tạo.

Khi ba về thì tôi đã vượt biên đến Mỹ…

Cho đến cuối đời, trong khoảng thời gian hai tháng ba nằm trên giường bệnh của bệnh viện, có lẽ là thời gian tôi gần gũi và nói chuyện với ba nhiều nhứt. Ba có đủ bệnh trong người, nhưng bệnh gì cũng quy về bệnh lão. Bốn đoạn đường đời sinh lão bệnh tử ba đã đi gần hết ba đoạn đường đầu.

Và chuyện gì phải tới cũng sẽ tới. Định mệnh và số phần của mỗi con người ai mà cãi được.

*

Một tuần sau khi đã chôn cất ba xong, tôi được điện thoại của nhà thương gọi vào để họ đưa lại những đồ đạc cá nhân mà ba đã mang theo mấy tháng trước. Gồm bộ quần áo ba mặc khi nhập viện, và vài giấy tờ cá nhân khác.

Tôi cầm gói đồ của ba đi ngang qua căn phòng mà ba tôi đã nằm trong hai tháng trời. Căn phòng còn để trống nên tôi bước vào.

Mọi đồ vật trong phòng hình như vẫn còn y như mới ngày hôm qua tôi và ba còn ở đây. Vẫn là cái giường đó, ba tôi nằm mệt mỏi với những giây nhợ chằng chịt gắn trên mình. Bên cạnh giường là cái ghế mà tôi vẫn thường ngồi ngủ gật bên cạnh ba hằng đêm. Một lần tôi mệt mỏi quá ngủ quên. Khi giật mình tỉnh dậy thấy ba tôi đang cố gắng cầm ống bô đi tiểu một mình nhưng vì tay yếu nên nước đổ ra loang lổ trên giường. Tôi nói sao không kêu con, ba trả lời thấy con ngủ ngon quá nên ba để con ngủ…

Tôi lật lại bộ quần áo của ba và cảm thấy một nổi buồn lạ lùng xâm chiếm tâm hồn.

Hình như trong đời tôi chưa bao giờ buồn đến như vậy cả.

Tôi chợt nhận ra, mấy tuần qua, khi ba mới mất, tôi đau lòng nhưng không buồn như hôm nay. Khái niệm mất cha vẫn hãy còn mù mờ lắm, nửa tin nửa ngờ.

Nhưng hôm nay trở lại chốn cũ. Cảnh vẫn còn đây mà người đã không còn! Lúc đó tôi mới xác định được rằng ba đã thực sự ra đi.

Lần đầu tiên tôi cảm thấy thấm thía thế nào là sinh ly tử biệt.

Nổi buồn biệt ly.

ThaiNC

Ý kiến bạn đọc
19/06/201222:27:51
Khách
Cám ơn nhiều!
15/06/201207:38:18
Khách
Tôi không rõ nhận định thế này có quá đáng hay không:tâm lý con người nói chung;cái gì mình có thường thường ít ai lưu tâm và trân trọng đúng mức nhưng khi không còn trong tầm tay nữa mới thấm thía sâu sắc sự mất mát vô phương tìm lại được;như nước Việt thân yêu của chúng ta là một thí dụ điển hình!

Bài viết xuất sắc:trình bày nội dung mạch lạc,lời văn tự nhiên mà tràn trề cảm xúc đậm đà tình yêu thương của một người con nhớ về đấng từ phụ đã vui chơi miền lạc cảnh.

Cám ơn tác giả đã san sẻ tâm tình.

Hoan nghênh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,973,216
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp một số bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả kỳ nầy nói về một đề tài khác là những niềm vui khi “chơi” facebook.
Đây là tự sự của một thành viên tham gia chương trình VVNM. Tác giả bắt đầu tập viết ở tuổi 70 (2015), trong thời gian hai năm đã vượt qua mọi khó khăn và đã đoạt được giải Danh Dự (2016) và giải Vinh Danh Tác Phẩm (2017). Tác Giả quê quán ở Bến tre, sang Mỹ năm 1973, môt chuyên viên kỹ thuật về hưu, đang định cư tại Orange County. Hiện ông vẫn tiếp tục viết với sức sáng tác mạnh mẽ.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà sinh năm 1951tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Joje từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Bài đầu tiên của bà, “Cả Đời Tôi Làm Thư Ký Sở Mỹ. Sau đây là bài viết thứ hai của bà.
Tác giả là trưởng ban Tuyển Chọn Chung Kết giải Việt Báo từ năm 2017. Tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, bà nhận giải chung kết VVNM 2001, với bài “32 Năm Người Mỹ Và Tôi” và vẫn tiếp tục viết. Bà hiện làm việc bán thời gian cho National-Interstate Council of State Board of Cosmetology (NIC) và là cư dân Westminster. Bài mới nhất là chuyện mấy bà mấy cô đi chụp quang tuyến để khám ung thư ngực.
Tác giả Hồ Nguyễn, cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Anthony Hưng Cao là một Bác sĩ nha khoa, hiện hành nghề tại Costa Mesa, Nam Cali, từng nhận giải Tác Giả Xuất Sắc 2010,với hồi ký "My Life" chia sẻ kinh nghiệm học tập của ông. Ngoài nghiệp y khoa, ông còn là người viết văn, soạn nhạc và luôn tận tụy với sinh hoạt nghệ thuật, văn hóa, giáo dục. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả cùng 2 con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ, hiện có tiệm Nails ở Texas và lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bài viết mới của bà kể về nghề lái taxi tại Huế và người khách đặc biệt là một nhạc sĩ gốc Việt danh tiếng ở Mỹ.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017 và đây là bài viết thứ ba của ông. Ông tên thật Trần Thanh Hiền, sinh năm 1955 tại Thạch Hãn, Quảng Trị, định cư tại Tulsa, Oklahoma từ 1977. Sau 35 năm làm Engineering Designer trong ngành Safety Technology – Fire Protection (Kỹ Thuật An Toàn – Phòng Chống Lửa), đã về hưu năm 2015, khi vừa tròn lục tuần, hiện là thông dịch viên hữu thệ tiếng Việt cho Tulsa County District Court và làm thiện nguyện tại Tulsa Catholic Charities.
Nhạc sĩ Cung Tiến