Hôm nay,  

Dâu Xứ Mỹ, Rể Việt Nam

04/05/201300:00:00(Xem: 114626)
Chú Sáu Steve Brown chính là "người Mỹ yêu tiếng Việt" mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài "Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu." Báo xuân năm Thìn, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông, Khôi An viết: "Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown. Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu." Viết về nước Mỹ, ngày 18 -12-2012 đã phổ biến bài viết trực tiếp bằng tiếng Việt đầu tiên của “chú Sáu”, kể chuyện tình 40 năm trước giữa chàng thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ và cô gái Việt. Bài thứ hai của tác giả Sáu Steve Brown là tự truyện “Hành Trình Tiếng Việt Của Một Người Mỹ.” Ông bà nay có 7 người con, hiện ở Ohio. Sau đây là bài viết thứ ba.
viet-ve-nuoc-my
Hình ảnh kèm theo: Ông bà Brown thời còn ở Vermont, 1973.
Cách đây vài năm, có lần bạn bè mời tôi đi ăn sáng tại nhà hàng Mỹ. Cô hầu bàn hỏi tôi muốn ăn hột gà nấu chín cỡ nào. Bỗng dưng tôi ngẩn ra. Tôi hoàn tòan quên nói như thế nào vì ở nhà dù Tuyết nấu hột gà nhưng nàng không cần hỏi và chúng tôi cũng không dùng chữ như trong nhà hàng tức là như người Mỹ thường nói. Tôi cảm thấy mắc cỡ mà phải hỏi lại cô hầu bàn “Chẳng hạn như thế nào?” Cô ta liếc tôi rồi mới trả lời . Khi nghe tôi nhớ liền. Chết cha, tôi đã quên một số cách nói của chính tôi rồi. Thì ra tôi đã dần dần thành một người Mỹ được Việt hóa.

Năm 1973, tôi giải ngũ khỏi Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và rời Việt Nam. Một tháng sau tôi trở lại nơi đó tìm người con gái mà tôi đã gặp và yêu thương. Sau khi tìm được nàng, vợ chồng tôi làm đám cưới ở Biên Hòa trong tháng Tư. Đến giữa tháng 5 vợ tôi về làm dâu xứ Mỹ.

Dĩ nhiên khi đi nước khác có bao nhiêu điều lạ. Ngôn ngữ mới, phong tục tập quán khác, đồ ăn cũng khác, vv... Những điều đó tôi đã từng trải qua khi mới đến Việt Nam. Tôi biết rằng khi chúng tôi về Mỹ cả hai sẽ phải cùng nhau đương đầu với khó khăn trong lúc vợ tôi học hỏi phong tục tập quán mới. Nhất là trong mấy năm đầu tiên.

Từ khi chúng tôi còn ở Việt Nam tôi đã kể cho Tuyết nghe về cái đẹp của phong cảnh quê tôi lúc tuyết rơi trên núi. Năm đó, dù đã tháng 5 các núi vẫn có tuyết nên tôi đem Tuyết đi xem. Tuyết thấy phong cảnh đẹp tuyệt vời nhưng khác với Việt Nam nhiều.

Tháng đầu tiên ở Mỹ chúng tôi ở chung với má tôi tại tiểu bang Vermont. Lúc đó ba tôi đã qua đời được tám năm. Sau đó tôi ghi tên vô đại học và chúng tôi thuê nhà tại một thung lũng tại khu rừng núi gần trường đại học. Lúc đó tôi làm công việc cắt cỏ cho trường đại học với lượng khoảng 50 đô la một tuần. Khi khóa học bắt đầu vào tháng 9 thì tôi nghỉ làm. Tôi được tiền cựu chiến binh 264 đô la một tháng, vì cách sống của vợ chồng chúng tôi rất đơn giản nên như vậy cũng đủ rồi.

Tại tiểu bang Vermont lúc đó có rất ít người Á Đông (hiện nay cũng vậy), vì thế không có đồ ăn Á Đông. Loại cơm mà lần đầu tiên Tuyết ăn ở Mỹ là từ gạo sấy gọi là instant rice. Loại cơm đó không ngon nhưng không có chợ nào bán gạo như ở Việt Nam. Vì thế Tuyết dần dần biết ăn và làm những món ăn thường ngày người Mỹ.

Một ngày kia trong lúc tôi đi học, Tuyết nghe có ai gõ cửa. Lúc đó là giờ tôi hay trở về nên Tuyết tự hỏi sao tôi gõ cửa mà không vô nhà như thường lệ. Sau cùng Tuyết mở cửa, một con dê chạy tọt vô nhà. Tuyết ngạc nhiên lắm, rồi nàng phải đuổi mãi nó mới ra khỏi nhà. Khi khác tôi đang học bài bỗng dưng Tuyết la lên “Anh ơi, có một con gì ở ngoài sân. Anh lấy súng đi!” Tôi nhìn qua cửa số thì thấy một con nai rừng (moose) thật to đứng đó. Thấy vậy tôi không đi lấy súng mà lấy máy chụp hình. Khi chúng tôi bước ra trước nhà nó đã chạy mất, nhưng rồi nó trở lại, đứng rất gần trước nhà. Khi chúng tôi ở vùng quê của tiểu bang Vermont chúng tôi cũng có nhiều kinh nghiệm giống như thế. Những điều đó Tuyết chưa bao giờ gặp ở Việt Nam.

Phong cảnh thung lũng nơi chúng tôi ở tuyệt đẹp, ở đó có con suối nhỏ nên chúng tôi hay thích đi câu cá. Tuyết nấu cá lên và đó là lần đầu tiên tôi thấy cá là món ăn ngon. Lúc trước tôi chưa bao giờ thích ăn cá nhưng từ khi ăn cá do Tuyết nấu, tôi trở thành thích ăn cá theo cách nấu Việt Nam.

Theo thói quen từ lúc nhỏ tôi hay thích đi dạo chơi trong rừng, có lúc mang theo súng, có lúc không. Từ khi có vợ tôi cũng hay đem Tuyết theo. Khoảng hai mươi lăm năm sau, khi tôi đem anh vợ tôi vô rừng chơi, anh ấy kể cho tôi rằng người Việt không thích vô rừng vì ở rừng Việt Nam đầy nguy hiểm như cọp, beo, mìn, ăn trộm, v.v... Thế mà Tuyết không phàn nàn hay tỏ vẻ sợ gì cả.


Đó là ví dụ liên quan đến một việc thường ngày tại Mỹ và Việt Nam nhưng dân hai nước đó có cảm xúc hoàn toàn khác nhau. Khi suy nghĩ lại tại sao lúc đầu Tuyết không sợ, tôi vẫn không biết rõ được. Có lẽ nàng linh cảm thấy là rừng ở Hoa Kỳ an toàn hơn, hay vì sự thoải mái của tôi đã truyền qua cho nàng.

Lúc chúng tôi mới lập gia đình thì tôi không biết nói tiếng Việt gì cả còn Tuyết biết nói tiếng Anh một ít mà thôi. Cả hai chúng tôi biết tiếng Pháp nên dùng thêm khi nói chuyện. Tình hình ngôn ngữ như thế dĩ nhiên rất dễ hiểu lầm. Vấn đề đó chỉ giảm bớt đến khi tôi biết tiếng Việt mấy năm sau.

Một ngày kia, khi chúng tôi đang đi thì Tuyết yêu cầu tôi ngừng xe vì bên đường có nhiều hoa nở đẹp. Nhưng tôi phải giải thích cho Tuyết chỗ đó là đất riêng của người ta nên không hái hoa ở đó được. Khi khác trong mùa đông khi đi qua đèo, bỗng dưng chúng tôi thấy một con nai đang đứng trong tuyết bên đường. Tuyết nghĩ bàn chân nó bị kẹt trong tuyết nên dễ bắt. Nhưng khi tôi ngừng xe nó chạy vô rừng liền.

Theo phong tục người Mỹ khi mời ai đến ăn cơm thì chỉ nói một lần mà thôi. Nhưng khi Tuyết mời ai nếu họ không đồng ý lần đầu tiên thì hỏi lần thứ hai, thứ ba. Khi người Mỹ đã nói không một lần thì họ sẽ cảm thấy không thoải mái nếu bị tiếp tục hỏi nữa. Nhưng Tuyết giải thích cho tôi đối với người Việt nếu không hỏi đến ba lần người ta sẽ cho mình là không thật lòng. Những điều như thế rất khó biết được nếu không có ai giải thích cho mình.

Một lần chúng tôi mời bà ngoại tôi đến ăn cơm. Khi bà tới, Tuyết làm một bữa cơm ngon và chưng bày bàn ăn cẩn thận với khăn bàn hoa. Khi ăn xong bà ngoại cho tôi biết cái khăn mà Tuyết trang trọng trải trên bàn là khăn trải giường. Cái khăn đẹp nên Tuyết không biết được. Nghe xong cả hai chúng tôi cười hoài.

Sau khi Tuyết chia tay với gia đình bên Việt Nam thì nàng nhớ nhà nhiều. Tuyết chỉ liên lạc được với gia đình qua những lá thư mà thôi. Lúc đó chúng tôi có ý định trở lại Việt Nam sau khi tôi tốt nghiệp đại học, tức là khoảng bốn năm sau. Chúng tôi không hề biết kế hoạch đó sẽ bị cắt đứt bởi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Suốt hai năm sau khi lấy nhau chúng tôi theo dõi tin tức thường xuyên. Lắm lúc có đại diện phong trào phản chiến hay là nhà báo tuyên truyền cho Cộng Sản. Những điều họ hay đề cập tới nhứt là phê bình về chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhì là khen lực lượng Việt Cộng hay quân đội Bắc Việt. Chúng tôi có rất nhiều thắc mắc, lo lắng về những điều họ nói. Tuyết viết thư cho ba nàng nói “con e rằng cộng sản sẽ thắng chiến tranh.” Ba nàng hồi âm là phụ nữ không biết gì về chính trị.

Bây giờ, bốn mươi năm sau khi chúng tôi lấy nhau, việc dùng ngôn ngữ nào thay đổi tùy theo ai đang ở nhà. Khi nói tiếng Việt nhiều hơn là những lúc bà con của Tuyết đến ở chung với chúng tôi. Còn những khi khác chúng tôi nói tiếng Anh nhiều hơn. Hiện nay tỷ-lệ món ăn Việt với món ăn Mỹ trong các bữa ăn của tôi là 80/20. Thật ra nếu không có đồ ăn Mỹ thì đối với tôi không sao, nhưng nếu không có đồ ăn Việt Nam thì tôi thèm lắm. Còn Tuyết thì ăn đồ ăn Việt Nam nhiều hơn.

Khi bắt đầu bữa ăn, theo phong tục Việt Nam thì phải mời những người ngồi chung bàn nhưng phong tục Mỹ không có cái đó. Hiện nay khi ăn chung với người Mỹ tôi vẫn muốn mời họ ăn, dường như tôi cảm thấy có điều gì thiếu sót khi không mời. Rồi tôi phải tự nhắc đó không phải là phong tục của người Mỹ. Có những ý kiến đơn giản khi dùng tiếng Việt nhưng tôi thấy rất khó diễn đạt bằng tiếng Anh. Lý do chính là phong tục Mỹ không có điều đó. Những tình huống như thế cho tôi thấy tôi đã được Việt hóa khá nhiều.

Nói chung, việc làm quen với một phong tục tập quán mới là điều cần có thời gian dài và lúc đầu có thể khó khăn. Tuy vậy khi chung sống với nhau lâu thì những thay đổi xảy ra mà nhiều lúc mình không nhận thấy. Cũng như tôi không biết những phong tục và cách sống Việt đã hiện ra trong tôi khi nào.

Thì ra không chỉ có Tuyết hội nhập và làm dâu xứ Mỹ, tôi cũng đã thành chàng rể Việt dù đang sống trên đất Mỹ.

Sáu Steve Brown

Ý kiến bạn đọc
24/07/201819:29:30
Khách
Một mái ấm quá tuyệt vời vì cuộc sống chan hòa . Xin cám ơn STEVE BROWN
18/05/201308:47:35
Khách
Cám ơn Thuỳ góp ý và về cái chức thật tốt đẹp. Chúc Thuỳ mọi sự thật vui vẻ.
Cám ơn thom đọc những bài viết tôi và có lời khen
Cám ơn cháu Khôi An đọc bài viết chú và cũng vì sự giúp đỡ của cháu nữa.
Cám ơn Cháu Donna. Lâu lắm không thấy bài viết mới của cháu. Cứ viết đi nhé.
07/05/201321:58:55
Khách
Cả hai vị đều là người may mắn"cực-kỳ" may-mắn..đấp-bồ..may-mắn và một cuộc tình và(đời) rất đẹp và hạnh-phúc( không có gì hơn nữa để mà mong ước) Rất trân trọng được chia sẻ qua những bài viết của chú SÁU.Chào.Thom.
07/05/201322:14:52
Khách
Bài viết rất dễ thương.
09/05/201301:04:55
Khách
Hoan hô chú Sáu tiếp tục viết tiếng Việt và tiếp tục Việt hóa!
04/05/201312:41:03
Khách
Tình yêu không phân biệt ngôn ngữ, tập quá hay cách ẩm thực Mr. Brown ơi! Chúc ông và người bạn dời có thêm 45 năm hạnh phúc bên nhau nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,201,391
Tác giả sanh năm 1943 tại Cân thơ - Bác sĩ thú y, giảng dạy tại Đại Hoc Cần thơ trước 75 - Cùng gia đình vượt biên năm 1980. Học lại và làm việc cho cơ quan Canadian Food Inspection Agency từ 1985 đến ngày hưu trí năm 2008. Bài đầu tiên Viết Về Nước Mỹ, Đất Lành Chim Đậu nhận giải Vinh Danh Tác giả năm 2007. Sau 10 năm tiếp tục góp bài cho Việt Báo, tác giả cho biết “Vì lý do sức khỏe bất ngờ, xin chào tạm biệt tất cả bạn đọc để tĩnh dưỡng. Và đây là bài viết cuối cùng của ông: Chuyện hai mùa Vu Lan 2016-2017, con trai lái xe hàng ngàn dặm về cùng bố lát gạch sân đậu xe và tu sửa ngôi nhà gia đình. Việt Báo Viết Về Nước Mỹ trân trọng cám ơn Bác sĩ Nguyễn Thượng Chánh. Kính chúc ông và gia đình an vui, mạnh khỏe.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016, đồng thời, cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng trên dưới một triệu người đọc. Bài mới của là một tự sự gợi nhớ nhiều kỷ niệm.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự VVNM từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Vừa nhận thêm giải danh dự VVNM năm 2017. Sau đây là bài mới của tác giả, vẫn với cách viết cẩn trọng, chu đáo, sống động.
Trước 1975, tác giả là một hạm trưởng hải quân VNCH, sau đó là 10 năm tù cộng sản, và định cư tại Mỹ theo diện H.O. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, ông đã nhận giải bán kết 2001, từ 9 năm qua đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, và vẫn tiếp tục góp bài mới.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”. Bài mới của tác giả kể về cuộc họp mặt của các cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và chuyến đi 5 ngày trên du thuyền Carnival Inspiration.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. Với mỏ vàng trên sông Yuba, Marryville khởi thủy từng là thành phố của dân đào vàng. Thời nay, du khách và cư dân tại Marryville vẫn lai rai lượm được vàng cục, có du khách lượn cả cục kim cương trị giá nửa triệu mỹ kim. Đó là chuyện có thật, đề tài của tác giả trong bài viết mùa Lễ Tạ Ơn năm nay.
Nhạc sĩ Cung Tiến