Hôm nay,  

Giải thưởng Việt Báo Mang Tên Bà Trùng Quang và Bài Viết Tưởng Nhớ: Viết Sau Tang Lễ Bà

03/08/201300:00:00(Xem: 213796)

1-8-2013_ba_trung_quang_black-content
Di ảnh Bà Trùng Quang, từ trần ngày 06 - 09- 2012 tại San Jose.

Việt Báo Foundation, tổ chức điều hành Giải Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ năm 2000 tới nay, vừa loan tin như sau:

* Giải Thưởng Mang Tên

Bà Trùng Quang

“Bà Trùng Quang là bậc nữ lưu tiền phong của thế kỷ 20, nhà hoạt động xã hội, bảo vệ nữ quyền và là nhà giáo, nhà báo, nhà thơ sống gắn bó lâu bền nhất với tiếng Việt, chữ Việt, văn hoá lịch sử Việt. Bà sinh ngày 1 tháng Một 1912 tại Việt Nam, mất ngày 6 tháng Chín, 2012 tại Hoa Kỳ, sống hơn 101 năm. Nhờ hưởng đại thọ, Bà là người duy nhất trong lịch sử quốc ngữ trên trăm tuổi vẫn làm thơ viết văn.

Vượt biển sang Pháp rồi sang Mỹ từ 1979, Bà định cư tại San Jose, Bắc California. Ở tuổi 80, Bà trở lại đại học Mỹ và tiếp tục sáng tác. Vào tuổi 90, năm 2001, với bài viết "Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ", Bà kể chuyện vượt biển, định cư, hội nhập và kêu gọi mọi người cùng viết về nước Mỹ, để gìn giữ cho con cháu mai sau những trang sử sống của cộng đồng gốc Việt.

Trước lúc lâm chung, Bà đã tự sắp xếp dặn dò mọi việc hậu sự và con cháu tuyệt đối vâng theo. Tang lễ được tổ chức riêng tư trong gia đình thân tộc. Tháng Sáu 2013, vị trưởng nam của Bà là Ông Đỗ Doãn Quế - nguyên Luật Sư Toà Thượng Thẩm Sàigòn trước 1975, hiện là Dược sĩ tại San Jose - thông báo là trong số ngân khoản giới hạn Bà để lại, có 10,000 mỹ kim dành tặng cho giải thưởng Việt Báo.

hinh_trungquang-nhaca-kieuchinh-large-content
2002, tại Họp Mặt Việt Báo Năm Thứ Ba, với Nhã Ca và Kiều Chinh, người học trò cũ thời Hà Nội.

Với lòng biết ơn và tưởng nhớ vị tác giả trưởng thượng, Việt Báo quyết định thành lập thêm giải viết văn mang tên Bà Trùng Quang, cùng tiến hành với giải thưởng Việt Báo. Tôn chỉ Giải Trùng Quang thể hiện tâm huyết mà Bà hằng sống và nhắc nhở, là gìn giữ tiếng Việt, chữ Việt, văn hoá Việt trong đời sống của người Việt hải ngoại.

Giải Trùng Quang năm đầu tiên được chính thức công bố trong lễ phát giải và ra mắt sách Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIV, Chủ Nhật 11 tháng Tám 2013, tại Little Saigon, với sự hiện diện của Dược sĩ Đỗ Doãn Quế và một số thân nhân cố nữ sĩ Trùng Quang./.

Sau đây là bài viết tưởng nhớ do Nguyễn Trần Phương Dung, tác giả đã nhận Giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011, viết sau tang lễ Bà Trùng Quang.

* Bà Cười Tươi Thật Tươi

Cụ Bà Trùng Quang là vị tác giả trưởng thượng được mọi người quí trọng, tôi thuộc thế hệ ba rọi tập tành viết văn Việt. Tôi có cơ duyên được thăm gặp Bà qua Chương Trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Bà cháu gặp nhau rồi thư từ qua lại, Bà thường nhắc nhở tôi cùng đọc, cùng viết.

Tuy con cháu thân thương gần gụi, Bà vẫn nhất định sống "một mình một cõi" trên lầu hai ở đường King, đối diện khu Lion Plaza, San Jose. Hồi còn ở Florida, mỗi lần về Cali, tôi thường ghé thăm nghe Bà kể chuyện xưa. Bà có lối nói chuyện dí dỏm gẫy gọn rất dễ thương. Khi nói điều gì vui, mắt Bà sáng lên tinh nghịch, miệng hóm hỉnh cười. "Bà luôn cười tươi dù sức cùng lực kiệt. Đến thăm Bà phải cố mà cười cho bà vui." Chú Từ thường nhắc. Mỗi lần đến thăm Bà, nụ cười là chính.

Bước qua tuổi một trăm, có lần Bà bị tai nạn té ngã nặng và sức khỏe yếu dần. Lá thư cuối cùng Bà viết, "Tôi dạo này không được khoẻ và bị đau tay, chắc không viết thư thường cho cô được..." Tôi đọc thư mà buồn. Bà bị lãng tai khó nói chuyện điện thoại nên chúng tôi viết thư cho nhau. Bây giờ Bà lại bị đau tay, không biết làm sao mà liên lạc. Tôi tự an ủi rằng gia đình sắp dọn về lại Cali, lúc đó sẽ nhiều dịp thăm Bà.

4_ba-thy-phd-large-content
“Bà luôn cười tươi dù sức cùng lực kiệt. Đến thăm Bà phải cố mà cười cho bà vui.” Nursing Home, 2012, Thăm Bà lần cuối.

Lần cuối cùng đến thăm, Bà đã yếu nhiều và đang sống trong Nursing Home cũng gần khu Lion Plaza. Trước khi vào phòng, chúng tôi nhắc nhau phải cố mà cười thật tươi cho Bà vui.

Bà gầy ốm héo hắt như chiếc lá cuối đông trông thật thương cảm. Tuy vậy xưng tên ra là Bà nắm lấy tay và cười, "Phương Dung và Thy i-cờ-rét của Việt Báo." Tôi ngồi ghé bên giường xoa nhẹ đôi bàn tay gầy guộc, cồm cộm gân xanh và… cười tươi, Bà có vẻ hài lòng. Chị Tường Vân, người y tá chăm sóc luôn ở bên Bà, được lệnh lấy lọ nước hoa trong tủ đưa cho tôi bôi. Chị cũng cười thật tươi và nói, "Lọ nước hoa này người thân của Bà mang bên Pháp về tặng, Bà quí lắm mới lấy ra cho bôi đó."

Tôi biết mình được Bà thương từ lâu. Hồi Bà còn bên đường King, sữa Ensure dành cho người già, Bà bắt tôi phải mang về Florida pha cho con uống. Bà còn mang ra áo kimono, nói đây là cái kimono đầu tiên "tự tay ta may" thời còn là sinh viên bên Nhật. Tự tay Bà mở áo, bắt tôi phải mặc làm dáng đi đứng, ngồi cả trên cái ghế bành duy nhất trong phòng chỉ dành riêng cho Bà, để chính Bà chụp hình. Có lần hay tin tôi đang ở San Jose làm việc hãng, Bà gọi điện thoại trách, "Cô đi đâu mà chưa ghé thăm tôi…"

Và hai bà cháu có nhiều dịp cùng cười.

Cuối năm 2010, khi viết bài mừng sinh nhật thứ một trăm của Bà, coi lại hình ảnh, thấy trong hình Bà luôn cười thật tươi. Nụ cười nào cũng sáng lên nét đẹp riêng, dù sức Bà đang ngày càng yếu hơn. Từ phòng viết nhà cũ ở Florida, tôi nhớ mình đã nhìn ra khu rừng nhỏ ngay sau nhà trồng toàn cây phong, bần thần thấy rừng phong lá đỏ.

Tháng Tám vừa rồi, vị chủ khảo đầu tiên của Chương Trình Viết Về Nước Mỹ, nhà báo lão thành Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh qua đời. Gặp nhau ở đám tang, Cô Nhã Ca nói, "Cô chú vừa thăm Bà. Bà yếu lắm rồi. E không còn bao lâu…"

Dù hiểu "sinh lão bịnh tử" là quy luật muôn đời, hiểu rừng phong mùa thu tuyệt đẹp nhưng lá phong đỏ rồi phải có ngày rụng, tôi vẫn ngỡ ngàng khi nhận được dòng nhắn vào vài tuần sau:


"Bà Trùng Quang đã mất tối hôm qua, khoảng sau 9 giờ."

ba_trung_quang_chan_dung-large-content
1938, ảnh chụp tại quê nhà Hạ Vĩnh, Thanh Hà - Hải Dương.

Vậy là Cụ Bà sinh ngày 1, tháng Một, năm 1912 đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 6, tháng Chín, năm 2012. Theo tiểu sử, Bà là thứ nữ của Quan Tuần Phủ Lê Văn Thức, quê gốc là Hạ Vĩnh, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, nhưng học và trưởng thành tại Hà Nội. Từ những năm 30' của thế kỷ trước, Lê tiểu thư đã là người khởi xướng phong trào phụ nữ Việt duy tân. Trước 1954, Bà là hiệu trưởng trường Việt Nữ Hà Nội. Bà cũng là chủ tịch sáng lập Hội Phụ Nữ đầu tiên, người chọn ngày Lễ Hai Bà Trưng làm ngày Phụ Nữ Việt Nam, chính thức được Nam Phương Hoàng Hậu chấp nhận. Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon, khi thăm Hà Nội năm 1951, có gặp riêng Bà để hỏi việc giúp hồi cư đồng bào muốn rời bỏ vùng cộng sản. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi về nước nhận chức Thủ Tướng, ngay khi ra Hà Nội lần đầu trước ngày đất nước bị chia đôi, có gặp riêng yêu cầu Bà tham chánh. Bà không nhận chức vụ, xin xuất dương du học hầu đem kiến thức về giúp dân giúp nước.

Sau khi tốt nghiệp Đại Học Quốc Tế bên Nhật, Bà trở về Sài Gòn, mở trường Đức Chính, chuyên dạy sinh ngữ, nữ công gia chánh và huấn nghệ thủ công. Chính phủ VNCH đã tặng Bà nhiều bội tinh, huân chương lao động và văn hoá xã hội.

Sách Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002, Bà Trùng Quang có bài "Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ" kể chuyện Bà trở thành thuyền nhân vượt biển sang Pháp rồi qua Mỹ. Định cư tại miền Bắc Cali, dù tuổi ngoài 80, Bà vẫn trở lại trường học và được thị trưởng San Francisco tuyên dương. Sang tuổi 90, Bà vẫn dự Viết Về Nước Mỹ, và kêu gọi mọi người cùng viết. Phát biểu trong video do chúng tôi thu hình, Bà đặc biệt kêu gọi thế hệ trẻ gìn giữ ngôn ngữ, truyền thống văn hoá Việt.

Mấy năm trước, lo lắng về hiểm hoạ Việt Nam bị Tàu xâm lăng, Bà cho xuất bản sách "Bình Ngô Đại Cáo" do chính Bà sưu tập, chủ biên. Tôi được Bà cho sách, thấy trong sách có bản dịch Pháp ngữ bài hịch "thiên cổ hùng văn" của Nguyễn Trãi. Người dịch là Giáo sư Thạc Sĩ Nguyễn Cao Hách, cựu Khoa Trưởng Trường Luật Sàigòn.

Mới đây, khi lướt mạng online, tôi thấy tin Giáo sư Hách từ trần. năm 2011, thọ 94 tuổi. Trong cáo phó phân ưu có ghi tên Bà Trùng Quang là chị dâu. Hỏi thêm mới biết Giáo sư là em ruột của ông Nguyễn Cao Minh, người bạn đời của Bà.

Là một lãnh tụ quốc gia chống Pháp, Ông Minh từng bị người Pháp cầm tù, rồi bị Việt Minh Cộng sản giết. Goá bụa từ tuổi ngoài 30, Bà ở vậy trọn đời một lòng với nhà chồng. Lo toan bao chuyện nhà chuyện nước, Bà đã đương đầu với biết bao nghịch cảnh.

Được tin Bà ra đi, tôi nhớ bài thơ bà làm từ mùa xuân năm trước, khi đón sinh nhật thứ 100:

Chín chín qua, rồi tuổi một trăm
Vào ra quanh quẩn vẫn lo toan
Chuyện đời trăm việc khó khăn
Càng cao tuổi thọ càng băn khoăn nhiều.


Ở cõi vĩnh hằng, Bà có biết bà đã để lại dấu ấn băn khoăn trăn trở trong lòng con bé có chút duyên với Bà.

Biết những năm cuối đời, Bà coi tôi như con cháu trong nhà, sau khi Bà mất chú cô Từ Nhã không chỉ nghĩ đến chúng tôi để báo tin, mà còn sắp xếp cho vợ chồng tôi đến thăm Bà lần cuối.

Nghe gia đình kể Bà ra đi nhẹ nhàng. Buổi tối Bà ngủ, và không thức dậy nữa. "Bà chỉ đi chơi xa thôi, đừng làm ồn." Bà nói, và dặn bảo từ trước. Đám tang chỉ riêng con cháu trong nhà thôi. Dứt khoát không người ngoài. Không cáo phó, phân ưu. Ngay khi vào lò thiêu, phải đốt hết khăn tang. "Người ta đi là đi, có gì đâu mà phải thành tin tức, tang chế. Mà này -Bà nhấn mạnh- tuyệt đối không tin tức báo chí." Nghe kể, tôi biết đúng kiểu riêng của Bà. Dù sức cùng lực kiệt, vẫn nụ cười tươi.

Bà là bà cô lớn của họ Lê, nhũ danh Lê Thị Tuyên. Trùng Quang là bút hiệu để làm thơ viết báo. Làng báo Việt từ trong nước ngày xưa tới hải ngoại sau này, nhiều tờ báo lớn như Dân Việt, Ngôn Luận, Chính Luận, Sống, Báo Mới, Việt Báo, Văn Nghệ Tiền Phong… đều do con cháu họ Lê làm chủ hoặc điều hành. Bản thân Bà cô họ Lê, hơn trăm tuổi vẫn thơ văn báo chí. Mừng Bà trước lúc đi xa vẫn tỉnh táo, quyết liệt. Bà luôn là chính Bà.

Chủ Nhật 16, tháng Chín trời đẹp. Nắng cuối hạ ấm dịu dàng. Nhà quàn Chapel of the Chimes nằm yên tĩnh ở chân đồi thành phố Hayward. Tang quyến họp mặt lúc một giờ trưa để thăm viếng và đưa tiễn Bà. Hầu hết là con cháu của “Bà cô lớn của họ Lê”. Vợ chồng tôi ngạc nhiên nhận ra vài khuôn mặt quen thuộc. Trái đất quả thật rất tròn.

2_tang_le_que-t_nh-large-content
Tang lễ, hồi kinh cuối trước lúc bấm nút lò thiêu. Hai vị Ni sư, và tang gia: Trưởng Nam Đỗ Doãn Quế, Nhã Ca, Trần Dạ Từ. Hayward, California 16-09-2012.

Lễ phát tang, cầu kinh được cử hành trang trọng với sự chủ trì của hai ni sư. Chúng tôi theo chân chú cô Từ Nhã lên thắp hương viếng Bà. Bà nằm nhỏ nhắn trong áo quan, áo dài nhung màu tím than nhã nhặn, tay chắp trước bụng. Trông Bà rất thong dong, bình yên. Tôi vuốt nhẹ bàn tay gân guốc lần cuối. Bà bây giờ khỏe rồi, hết điếc, hết đau tay đau chân, tha hồ viết văn, làm thơ với các Cụ trên đó. Thích nhé!

Mọi người sắp hàng đi theo quan tài qua khoảnh sân đến nhà hỏa thiêu bên cạnh. Quây quần bên nhau đọc cho Bà lời kinh cuối rồi người con Trưởng Nam của Bà là Chú Quế, theo chỉ dẫn của Giám Đốc Tang Lễ của nhà quàn, đưa tay ấn cái nút đỏ trên tường. Ngoài cửa phòng thiêu có hồ nước rộng. Tôi nhìn mặt hồ êm ả rồi nhắm mắt cảm nhận ngọn lửa phía trong lò thiêu đang bùng lên. Tôi thấy lửa tung tăng bên chân Bà. Tôi thấy Bà đang cười.

Bà ơi, Bà cười tươi thật tươi nghe Bà. Như con từng thấy và hằng nhớ.

Nguyễn Trần Phương Dung

Ý kiến bạn đọc
06/08/201301:42:20
Khách
Phưong Dung Viết tình cảm quá!






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 865,478,090
Xin thưa với bạn có hai cái "sai" ở tựa đề. Thứ nhất, Ông Mandino không phải là một thương nhân mà là tác giả của quyển sách có tựa đề trên. Thứ hai, "lắm của" ở trong quyển sách self-help này (ta thường gọi là loại sách tu thân), "The Greatest Salesman in the World", không chỉ có nghĩa là của cải
Từ đêm đưa thuyền rời quê đã hơn 30 năm, nay dù muốn hay không, tôi vẫn phải về thăm lại, cha mất mới đây, mẹ còn khỏe, cả hai đều đã gần 100 tuổi. Trên cùng chuyến bay sang VN, may tôi lại gặp ông bà Nguyễn Quang Liên, một ông bạn cũ từ xưa ở Saigon, Tôi được biết thêm chuyện và kể lại: Quen lâu năm, biết ông là
Nàng nghe có tiếng cửa mở, nhưng không để ý. Nàng nhìn đồng hồ đeo tay thấy năm rưỡi thì biết ngay là lão đã về. Nàng vừa cười vừa nói chuyện điện thoại, rồi nhìn lão hất hàm ra dấu cho lão biết có thức ăn trên bếp. Lại món gà kho, ngán quá. Lão đi vào phòng ngủ thay đồ, nghe loáng thoáng tiếng nàng trên điện thoại: "...vậy à"
Ngày còn nhỏ, tôi trông thật gầy gò, ốm yếu, tính tình lại nhút nhát lắm. Mẹ tôi sanh tôi thiếu tháng, chẳng biết sao mà hồi đó tôi lại sống được cũng lạ! Lớn lên một chút, chừng năm sáu tuổi, tôi đã biết thế nào là ăn đòn, vì bố tôi rất dữ đòn đối với con cái, một phần vì thích hàng xóm thấy mình dữ với vợ con, còn phần nữa thì tôi
Mẹ tôi năm nay 86, bắt đầu trở bệnh lãng trí nặng. Khi thì cụ thống trách đôi tay đôi chân vụng về, lẩy bẩy, vô dụng của mình. Khi thì cụ lộ vẻ hoảng hốt hoặc tự dằn vặt về những đổ vỡ, hư hại do sự "hoá đần độn" của mình gây ra. Khi thì cụ uất ức vật vã kêu khóc vì nhận ra giai đoạn tang thương cuối đời đã thực sự đến với mình rồi.
Tôi hỏi người bán vé: Từ đây đi Washington DC giá bao nhiêu và xe chạy mất mấy giờ và nếu tôi là người có tuổi thì bớt được bao nhiêu" Ngửng lên nhìn tôi, ông ta vừa bấm máy bán vé vừa trả lời: Ông được bớt còn 145.37 xu, còn nếu ông mua trước 7 ngày thì giá vé trong khoảng từ 80 đến 119 dollars tùy theo xa gần.
Lúc 12giờ đêm Lão Cát lai ra đi, một cái chết lặng lẽ cũng như cuộc sống vốn thầm lặng của Lão ! Bệnh viện F.V có lẽ là nơi Lão đến đó lần cuối trong chặng đường đời nhiều nổi truân chuyên, bộ óc bình dị đầy lòng nhân ái ấy đã thôi không còn thao thức trong quãng đời già nua ... Tôi viết câu chuyện này, tham dự cuộc thi
Đi làm về, nếu không đi chợ thì về thẳng nhà, nhìn xung quanh căn phòng của một người độc thân, cái gì cũng lặng lẽ. Từ cái bàn, chiếc ghế, cái Ti Vi trong góc, một chiếc gối, ngay cả chiếc gối để ôm gác phía dưới chân, cái mền kẻ những sọc vuông không hoa hòe xếp phẳng phiu ... cái gì cũng như tỏa ra một mùi vị lặng lẽ
Chiều nay, thứ sáu 28/4, trên đường lái xe đi làm về, chợt nhớ Chủ Nhật này là 30 tháng 4. Lại 30 tháng Tư nữa rồi! Chẳng hiểu sao tôi lại quyết định sẽ viết một mẩu truyện về đời mình nhân dịp kỷ niệm lần thứ 31 của ngày này. Có lẽ tôi nghĩ rằng bây giờ mình đã 50 rồi, đời cũng đã từng trải, chả còn sợ sệt gì nữa khi muốn nói ra những điều mình nghĩ, ít ra là về cuộc đời của mình. Năm 1987, sau năm tháng sống
Qua bao năm dài thai nghén, bố tôi mới sẵn sàng cho tôi chào đời. "Thân Phận” là tên của tôi được bố chọn. Đó là nỗi đau trăn trở của Người muốn gởi gắm vào tôi. Sau buổi ra mắt sách, tôi được ký tặng cho một người bạn vong niên của bố. Chủ của tôi là một người Việt định cư ở Hoa Kỳ khá lâu, từ thuở còn là học sinh trung học
Nhạc sĩ Cung Tiến