Hôm nay,  

“Bái Phục Má Luôn!”

23/08/201300:00:00(Xem: 64266)
  • Tác giả :
Tác giả TPO lần đầu góp bài Viết Về Nước Mỹ, với môt bài viết ngắn nhân mùa Vu Lan, với lời ghi: “Kính tặng Má yêu qúy và đại gia đình Trần Phi yêu thương.” Tựa đề bài được đặt lại theo nội dung. Mong TPO tiếp tục viết.

Dưới con mắt tôi từ nhỏ, Má tôi là một người đàn bà "bình thường," như những người đàn bà khác trong xóm tôi, như các dì tôi thời đó: con gái lớn lên, có chồng, sanh nhiều con... Cho đến khi tôi lớn thì tôi thấy Má tôi thật "phi thường", chị em tôi hay nói là "bái phục Má luôn!"

Má tôi là con gái út của ông Hương Nghị ở Gò Công, mười ba tuổi, sau khi học xong élémentaire, đi lên Mỹ Tho học nghề thợ may. Tôi không biết tại sao người dân miệt Gò Công không nói là "đi Mỹ Tho" mà chỉ nói là "đi Mỹ", giống như là đi Mỹ du học thời nay!?

Bà Thầy dạy may thấy Má tôi siêng năng, hiền hậu, lễ phép... đúng mực là con nhà nho nên đã làm mai gả Má tôi cho cháu nội của người hàng xóm có tiếng rất tốt bụng và mẫu mực.

Được ngày tốt, Ba tôi lên xe ngựa đi Gò Công để rước Má tôi về làm vợ. Cho đến lúc đám cưới mà cô dâu và chú rể chưa một lần gặp mặt, dù nhà Ba tôi cách nơi Má tôi học may chỉ một phút đi bộ, đứng ở lề lộ là đã thấy nhà nhau, chuyện khó tin nhưng có thật!

Vậy là cô dâu lên xe ngựa về làm vợ của một công chức, làm dâu bà Nội chồng, làm thợ may, dạy may, sanh con và nuôi con! Ông bà Nội mất sớm, Ba Má tôi nuôi người em trai duy nhất của Ba tôi, Chú chỉ lớn hơn anh trai của tôi ba tuổi.

Từ năm hai mươi mốt đến năm bốn mươi tuổi, Má tôi cho ra đời mười bốn đứa con, bảy trai và bảy gái, thật bái phục! Thời thập niên 1940, y học còn chưa tiến bộ, Má tôi đã chia tay con trai trưởng lúc chưa tròn tháng tuổi, hai đứa con khác vừa lọt lòng cũng đã ra đi. Năm 1980, dù y học hiện đại hơn nhiều, nhưng Má tôi lại phải ngậm ngùi chia tay thêm đứa con trai mười sáu tuổi vì mang phải bịnh "trời kêu ai nấy dạ". Vậy là bốn đứa con trai đã ra đi.

Mùa hè đỏ lửa 1972, Chú tôi, sĩ quan QLVNCH đã hy sinh, Ba Má tôi dang tay đón con trai Chú, nhỏ hơn em út tôi bốn tuổi, về nuôi. Tôi thấy Má tôi thật phi thường!

Lúc nào Má tôi cũng phải lo cơm nước cho bà Cố tôi, lo có cơm đúng giờ để Ba tôi và cho chúng tôi đi học về đói bụng là có cơm ăn liền. Bao nhiêu việc mà còn phải dạy học trò may, may quần áo để giao cho khách đúng hẹn, nhất là áo dài cưới, không thể trể hẹn. Thời đó nhiều người khó tính, tin dị đoan còn coi cả giờ để đi lấy áo cưới nên nhiều khi Má tôi phải thức cả đêm để may, rồi phải lo... mang bầu và sanh con, chưa kể đến lúc đau bịnh.


Tôi chỉ có một đứa con, mỗi lần con tôi bịnh thì hầu như là tôi bịnh theo. Còn Má tôi có khi phải chăm sóc mấy đứa con bị bịnh cùng lúc, nhất là khi bị bịnh hay lây như sởi, ho gà... càng nghị càng phục Má.

Cám ơn bà Cố, người đắc lực giúp Má tôi trong việc chăm sóc chúng tôi. Bà mất năm tôi lên chín tuổi, đã năm mươi năm qua mà tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh bà nắm sợi dây đưa võng cho chúng tôi ngủ tròn giấc để Má tôi có thì giờ làm bao nhiêu chuyện có tên cũng như không tên trong nhà hằng ngày.

Má tôi còn lại mười người con, thêm con của Chú là mười một, chị lớn nhất của tôi đã sáu mươi lăm và em út bốn mươi bảy. Tất cả chúng tôi đều được mang tên của loài chim và cùng có chữ lót là Phi. Ba tôi nói chúng tôi như một tổ chim, chim non xúm xít trong một tổ, đủ lông đủ cánh rồi thì bay xa. Chúng tôi đã bay xa, xa hơn Ba tôi nghĩ, bay vượt Thái Bình Dương!

Như bao nhiêu gia đình khác, sau ngày 30 tháng Tư quái ác: mất việc, mất dạy, mất học, ăn độn, buôn lậu gạo, thuốc lá, xăng dầu..., vượt biên bị bắt vô tù... gia đình tôi đều nếm đủ! Sau nhiều chuyến vượt biển, lần lượt em gái, con chú, chị và em trai tôi đã định cư ở Westminster.

Em gái đến Mỹ đầu tiên đã bảo lãnh Má tôi, lúc đó Ba tôi đã mất, khi còn sống ông nhất định ở lại VN để lo mồ mả ông bà! Rồi chị tôi, tôi và các em cũng đươc em gái lãnh đến Mỹ.

Má tôi được đến Mỹ, rồi được là công dân Mỹ, được hưởng mọi ưu đãi mà nước Mỹ đã rộng lượng dành cho người già. Đã qua rồi thời vất vả nuôi con, như lời một nhà tiên tri đã nói với Má tôi "hết cơn bĩ cực đến hồi thới lai"! Rồi bà đã xuất gia, nhưng vì tuổi già nên không ở chùa mà vẫn sống ở nhà với chị và gia đình em gái tôi.

Công việc của bà bây giờ là tụng kinh, niệm Phật, trì chú và...chờ người đưa báo tới để đọc: Việt Báo, Viet Tide, Người Việt, Viễn Đông...Má tôi đọc không thiếu báo nào, trang nào. Tin tức nào hay, hấp dẫn hay chuyện nào đáng khâm phục thì Má tôi đọc lên để cả nhà nghe, rồi còn bình luận nữa! Má tôi rất hài lòng với cuôc sống hiện tại.

Xin tri ân nước Mỹ đã hào phóng đón nhận gia đình chúng tôi cũng như bao gia đình Mỹ gốc Việt khác.

Nhân mùa Vu Lan, chúng con xin cảm niệm ân đức mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát đã gia hộ cho đại gia đình Trần Phi, xin tri ân Má đã vất vả nuôi dạy chúng con, tri ân em gái, chị và em trai, là những người đã bơ vơ, vất vả đến Mỹ trước để các chị em đến sau có được ngày hôm nay.

TPO

Ý kiến bạn đọc
24/10/201307:00:00
Khách
Một người mẹ thật phi thường!Cầu chúc đại gia đình Trần Phi luôn được nhiều hạnh phúc và an lạc.Kính chúc mẹ của tác giả nói riêng và tất cả các bà mẹ mãi mãi được tôn vinh:Kỳ Quan Mẹ.
Cám ơn bài viết đầu tiên nhưng đầy ý nghĩa của tác giả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,645,919
Mười bẩy năm trước đây, ngày gia đình tôi vừa đến Mỹ, phóng viên nhật báo PEOPLE, có trụ sở đặt tại Muskegon City, thuộc tiểu bang Michigan đến phỏng vấn, cũng còn quá sớm, thời gian vừa chấm dứt chiến cuộc, vẫn còn có những sự kiện nóng bỏng, một số người Mỹ, nhất là nhóm phản chiến, chưa hiểu rõ người
Đã rất khuya mà Ngọc không tài nào chợp mắt được. Một phần có lẽ do hôm nay trời trở nên nóng lạ lùng làm Ngọc khó ngủ. Nhưng cái chính là Ngọc cứ mãi suy nghĩ về Ngày- của- Mẹ, ngày lễ mẹ đầu tiên trên đất Mỹ. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, sống ở Việt Nam, Ngọc đâu có hề biết hay nghe nhắc đến Ngày-của-Mẹ
Chiều thứ Bảy cuối năm Ất Dậu, ngồi chơi bên ly rượu tất niên ở nhà người bạn, vô tình cầm lên tờ báo Việt ngữ, tôi chợt bàng hoàng. Trong trang phân ưu lớn của tờ báo, người ta nói đến tên anh, thiếu tá Ngô Giáp. Chủ tịch hội ái hữu không quân Nam Cali, vừa qua đời ở tuổi 65! Đã 40 năm rồi từ ngày tôi biết anh
Ba mua cái bàn về rồi để đó đi làm.   Cái bàn còn nguyên trong thùng chưa ráp lạị   Bé Tí rủ: - Chị Tâm với em ráp cái bàn cho ba hen.    Tôi lắc đầu quầy quậy: - Tí rủ lộn người rồi.   Tay chân chị Tâm mà đụng vô mấy cái vụ này thì.... hỏng bét. Con Tí cười cười:
Rất vui khi nhận thư góp ý cuả ông về bài "Dậy Học Trên Đất Mỹ" mà tôi viết cách đây không lâu. Vui nhất là thư của ông đến từ   Cần Thơ,   một miền đất thân yêu mà chắc trong nhiều năm nữa, tôi chỉ còn có thể gặp lại trong những giấc mơ mà thôi. Điều vui hơn là sau khi ông gửi những thắc mắc ấy đến, tôi lại nhận đuợc một lá thư 
Gần hai mươi năm sau ngày miền Nam Việt Nam sụp đổ, Hoàng mới đặt chân đến nước Hoa Kỳ theo diện HO. Tuổi đời gần năm mươi, hai bàn tay trắng, nhờ sự giúp đỡ của hội Từ Thiện và bạn hữu phải làm lại từ đầu, chạy ngược chạy xuôi tìm việc làm để có tiền thanh toán nơi ăn chốn ở. Bạn hữu muốn anh có một
Thằng bé ngồi kế bên chị nó, đòng đưa hai chân trong đôi giày màu trắng có viền đen. Ngồi đối diện với hai chị em nó là người đàn ông có đôi vai gầy, đang chăm chú đọc tờ báo xếp làm đôi, tóc ông lòa xòa rơi xuống vầng trán có nếp nhăn li ti. Thằng bé đưa mắt nhìn đám trẻ tung tăng đùa giỡn trong khung lưới nhựa
Bản Quốc ca Việt Nam được mở đầu cho cuốn băng nhạc, những bản hùng ca thời chiến, mà tôi đã nghe đi nghe lại hơn mười lăm năm nay. Tôi thường tìm đến băng nhạc này mỗi khi lòng xôn xao nhớ về quê hương và những ngày xưa yêu dấu.   Trong lời ca điệu nhạc đầy hùng khí như vẫn còn vang dội những bước chân hiên ngang
Đã mấy lần tôi bỏ chúng ra khỏi túi hành trang chuẩn bị lên đường thì bà cụ lại lén chờ lúc tôi không có mặt bỏ chúng vào,   -hôm ấy là ngày 15 tháng 6 năm 1975, ngày chót theo lệnh trình diện lên đường đi tu huyền- tôi xách cái túi lên thì lại thấy đôi dép râu và bộ bà-ba đen đã nằm lại trong đó từ lúc nào. Bực quá tôi lấy chúng
Mỗi khi hạ về, ngày của Mẹ lại đến. Bất chợt, bâng khuâng, tôi bỗng thấy ganh tỵ với những ai còn được cài bông hồng trên áo!   Sự ganh tỵ ích kỷ, nhỏ nhoi nhưng thật khó tránh khỏi. Thế rồi mọi ký ức, kỷ niệm với Mẹ, về Mẹ lại ùa về vỡ òa từng rung cảm để tôi không thể không cầm viết.   Viết không hay, nhưng phải viết vì
Nhạc sĩ Cung Tiến