Hôm nay,  

Nổi Đau Còn Đó

24/04/201400:00:00(Xem: 13401)

Người viết: Trương Tấn Thành
Bài số 4194-14-29604vb5042414

Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục, từng trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia,

* * *

Tính từ 1975 đến nay đã gần bốn mươi năm, rồi tưởng là nổi đau do chế độ siêu việt sau bảy lăm gây ra đã phai đi nhưng không phải vậy.

Hắn đi làm nghề thông dịch nhiều năm nay ở Oregon và đã nhiều lúc khó cầm được nước mắt khi nghe những câu chuyện não lòng của bà con người Việt.

Có lần hắn nghe một cựu tù cải tạo lớn tuổi kể là khi những người trốn trại bị bắt lại, bọn cán bộ coi tù đã dùng con dấu sắt nung đỏ hai chữ CT ấn vào người để “làm dấu”! Ông nói là nếu không tận mắt thấy khổ hình cực ác đó thì chính ông cũng không thể tin là có chuyện này.

Hôm nay, công việc phiên dịch mà hắn được phân công là ở một bệnh viện. Hắn tới trước chờ đợi, một lúc sau có cặp vợ chồng tuổi cỡ lục tuần bước vào. Hắn lên tiếng chào hỏi hai người và xin họ xác định tên tuổi. Ông chồng có tật một chân, ốm, da ngăm đen. Bà vợ có nét lai, tuy có tuổi nhưng vẫn còn thanh tú. Khi cô cán sự người Mỹ mở cửa ra ghi danh, hắn tự giới thiệu mình là người thông dịch. Bà vợ được mời vào phòng làm việc. Sau khi ghi tên tuổi, cô cán sự Mỹ mở lời:

- Thưa bà, tôi là người phụ trách viêc tìm hiều vè bịnh trạng của ngaỳ hônm nay và xin được hỏi bà nhiều câu hỏi. Bà cho phép chứ?

Bà vợ nói đồng ý.

- Hôm nay bà đi một mình đến hay có ai theo vậy?

- Dạ có chồng tôi theo. Ông ấy mgồi bên ngoài.

- Vậy sao? Bà có muốn ông ấy vào đây không?

- Muốn! Muốn lắm chứ! Ông ấy nhớ nhiều chuyện mà tôi không nhớ được… Đầu óc của tôi bây giờ ở đâu đâu không hà!

- Để tôi ra ngoài mời ông vào nhe.

Cô cán sự bước nhanh ra khu chờ đợi mời người chồng vào.

Người chồng ngồi vào ghế kế bà vợ. Tôi ngồi kế bên ông. Cô cán sự ngồi đối diện với bà vợ.

Cô cán sự bắt đầu hỏi:

- Hôm nay bà thấy có gì khác lạ không? Tôi thấy ghi trong hố sơ bịnh là bà thường nằm ngủ thấy ác mộng lắm phải không?

- Da, lúc trước tôi thường thấy lắm nhưng sau khi bà bác sĩ cho thuốc thì giờ tôi thấy đỡ hơn…


- Bà thường thấy gì vậy? Trong hồ sơ để là mỗi khi bị bà thường sợ hãi la hoảng và hay giựt mình thức dậy giữa khuya…

- Tôi thấy đủ thứ… nhứt là những cảnh khủng khiếp khi xưa…

- Xin bà cho biết những cảnh đó như thế nào và vào hồi nào?

Cô cán sự vừa hỏi vừa ghi xuống.

- Hồi chồng tôi bị đi cải tạo tôi phải đi theo xe lửa để mua bán kiếm sông. Có lần tôi bị lính bảo vệ đuổi không cho bán. Chúng lấy báng súng dộng vào đầu tôi tét cả da chảy máu.

Nước mắt bà vợ chảy ròng ròng:

- Sau đó chúng đạp đổ hết hàng của tôi. Mấy món đồ ăn bị chà vô đất cát. Chúng còn bắt tôi phải bò trên đất lượm lại rồi nói đem mấy thứ này về cho chồng con mày ăn!”

- Lúc đó là năm nào vậy bà?

 Người chồng trả lời:

- Sau năm bảy lăm khi tôi đã bị đi tù cải tạo. Tôi bị tù hơn ba năm và bị mất một chân khi còn ở trong trại…

Bà vợ nức nở trong nước mắt:

- Tôi buồn nhứt là chồng mình khi đi thì còn đù chân tay mà khi về thì bị mất một chân… Trước kia ông ấy là sỹ quan Hải quân…

Người chồng nói tiếp, có lúc bằng tiếng Anh, có lúc bằng tiếng Việt:

- Hai vợ chồng tôi phải vượt biển qua Phi và phải chờ hơn ba năm mời được tới Mỹ hồi đầu năm chín mươi. Khi qua Mỹ rồi, lâu lâu những nổi kinh hoàng và buồn tủi khi trước lại hiện về làm cho tinh thần chúng tôi không thể ổn định nữa.

Hắn vừa nghe vừa dịch mà lòng thấy chùng xuống vì chính hắn cũng từng bị đi tù cải tạo vì tôi vượt biên. Cũng giống như người cựu sĩ quan, sau nhiều lần vượt biển hắn mới tới được nước Mỹ hồi đầu năm chín mươi.

Công việc phiên dịch ngày hôm đó làm hắn thấy đau lòng. Hắn nhớ mãi hình ảnh ông chồng bị mất chân trong trại tù, bà vợ hoảng loạn vì bị báng súng công an đánh lỗ máu đầu năm xưa.

Tuy chân tay đầu óc còn lành lặn, nhưng cũng như họ, chính hắn cũng luôn bị ám ảnh bởi những ngày kinh hoàng trong trại tù cải tạo ở rừng sâu. Những nhục hình thể xác và hành hạ tinh thần có lẽ sẽ theo hắn đến suốt đời.

Ôi, sắp bốn mươi năm sau Tháng Tư ngày ấy. Cuộc sống tại Mỹ của bao người như hắn tuy an lành, no đủ, nhưng những vết thương sau ngày tàn cuộc chiến vẫn còn nung độc dưới bề sâu.

Nỗi đau chung còn đo.

Trương Tấn Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 857,714,997
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2004. Võ Phú là tên thật. Sinh năm 1978; sinh quán Nha Trang-Việt Nam; định cư, tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth Uni-versity. Hiện đang làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả lại tiếp tục Viết về nước Mỹ từ 2016, với sức viết mạnh mẽ và thứ tự hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà là một chuyên viên xã hội, từng nhiều năm làm việc tại Trung tâm Cao niên một thành phố tại Bắc California. Bà cho biết muốn tham gia viết về nước Mỹ từ lâu, nhưng phải chờ tới khi về hưu mới thực hiện được ý nguyện.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà là một chuyên viên xã hội, từng nhiều năm làm việc tại Trung tâm Cao niên một thành phố tại Bắc California. Bà cho biết muốn tham gia viết về nước Mỹ từ lâu, nhưng phải chờ tới khi về hưu mới thực hiện được ý nguyện. Bài viết đầu tiên của bà là "Bà Ngoại Khác Chủng Tộc". Sau đây là bài viết thứ hai của tác giả.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ khi tuổi ngoài bát tuần. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh, cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết đầu tiên là thư kể về mùa đông băng giá khác thường tại vùng Thủ Đô Hoa Kỳ. Sau đây, bài viết thứ ba là chuyện về mùa xuân và hoa đào.
Tác giả là một nhà giáo, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế năm 1972, đã dạy văn tại Huế 18 năm. Đến Mỹ 1990, đi học và trở lại nghề nhà giáo. Hiện dạy tại 2 trường California State University, Sacramento - Cosumnes River College, và Sacramento, California. Bà cũng từng là hôi trưởng, điều hành Trung Tâm Việt Ngữ Lạc Hồng, Sacramento, từ 1995-1997. Tác giả đã nhận Giải Danh Dự Viết về nước Mỹ 2009, với bài viết Levina, chuyện một thiếu nữ có mẹ Việt và bố là chiến binh Mỹ gốc Phi Châu bị giết tại Tân Sơn Nhất cuối tháng Tư 1975.
Tác Giả lần đầu tham dự VVNM từ tháng 7/2018. Tại Saigon trước 1975, Huỳnh Mai Hoa học Đại Học Văn Khoa, có làm thơ và viết truyện ngắn đăng trên vài nhật báo ở Saigon. Qua Mỹ năm 1993 theo diện HO của chồng, làm nghề tóc.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông nhận giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Với bài viết đầu tiên từ tháng Sáu 2017, tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Tác giả nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm 2018. Sau đây, thêm một bài viết mới của bà.
Nhạc sĩ Cung Tiến