Hôm nay,  

Khi Người Lính Chết Già

02/05/201400:00:00(Xem: 16039)
Tác giả: Nguyễn Văn
Bài số 4200-14-29610vb6050214

Với cách viết nghiêm túc, tác giả đã nhận giải vinh danh 2012. Bài viết cuối tháng Tư của Nguyễn Văn kèm theo lời đề tặng trân trọng: Thân tặng các thế hệ ly hương. Và xin vinh danh những người đã nằm xuống âm thầm, khi trong tim vẫn luôn mang theo một tình yêu nước Việt chân thành.

* * *

1.
Ngôi nhà nơi ông Nguyễn ở trong suốt phần đời còn lại của mình nằm trên con đường một chiều, thuộc khu ngoại ô khá vắng vẻ của Chicago. Nhà có hai phòng ngủ, vách bằng gỗ, trông nhỏ bé tựa như cái mobile home. Hàng xóm bảo ông dọn đến ở đó từ lâu lắm, nhưng chính xác vào năm nào thì không ai nhớ rõ. Không ai biết ông làm nghề gì. Họ bảo trước đây có người đàn bà sống chung với ông, nhưng khoảng vài năm sau bà ta lại bỏ đi. Cũng không thấy hai người có con cái gì. Cứ mỗi mùa hè, họ lại thấy ông bận rộn trong khu vườn sau nhà. Trên khoảng đất rộng chừng chục mét vuông ấy mọc lên đủ các loại rau xanh, nhiều loại chẳng biết tên gọi là gì, có cả giàn bầu trái màu trắng xám, dài bằng chiều cao của đứa con nít. Nhiều người nghĩ ông là dân phillippines vì nước da nâu sậm đặc trưng của thổ dân vùng hải đảo nhiệt đới. Trong mắt họ, đó là một ông già châu Á rất thạo nghề làm vườn nhưng có cuộc sống khép kín và cô độc đến lập dị.

2.
Suốt mùa đông năm ấy, hầu như chiều nào cũng vậy, người ta lại thấy ông Nguyễn ngồi lặng lẽ bên khung cửa sổ ở phòng khách, nhìn tuyết rơi. Trong phòng chẳng thấy bày biện đồ đạc gì nhiều. Vách phòng sơn màu trắng ngà, đôi chỗ nước sơn đã bắt đầu tróc lở. Thảm trải sàn mòn vẹt, trông cũ kỹ đến thảm hại. Một chiếc bàn gỗ nhỏ nằm gần bên cửa sổ, mặt làm bằng kính với vô số vết trầy xướt, trên đặt bộ ấm trà bằng sứ. Trong phòng chỉ độc nhất một chiếc ghế bằng mây đan, loại có tay cầm. Có vẻ đã lâu, chủ nhân căn nhà chưa hề tiếp một người khách nào. Trên mặt bàn, chén trà uống dở đã nguội lạnh từ lâu. Phòng không có tivi. Trên phía vách đối diện với khung cửa sổ treo đơn độc một chiếc nón sắt, loại mũ những người quân nhân hay dùng ở chiến trường. Chiếc mũ đã sờn cũ và phủ đầy bụi, chừng như nó được treo ở đó từ lâu lắm rồi.

Dụi điếu thuốc trong chiếc gạt tàn, ông Nguyễn đứng lên, dáng xiêu quẹo bước về phía góc phòng, đưa tay nhặt những thanh củi đã chuẩn bị sẵn, bỏ vào chiếc lò sưởi. Mấy tháng nay, ông thấy người yếu hẳn đi. Các khớp xương như muốn tách rời ra và không ngừng đau nhức mỗi khi trời trở lạnh. Chỉ đi chừng vài bước chân nhưng ông cảm thấy khó nhọc như thể phải vượt qua một quãng đường dài. Cả thân hình, lúc nào cũng muốn khụy hẳn xuống, đổ nhào về phía trước. Lần nào tới phòng mạch, sau khi khám xong, bác sĩ cũng đưa cho ông mảnh giấy ghi hàng lố tên thuốc. Ra vẻ như đang chú ý lắm, nhưng khi về đến nhà ông lại bỏ ngoài tai tất cả lời dặn dò của tay thầy thuốc. Không ai hiểu được bệnh của ông bằng chính bản thân ông. Điều phải làm trong cuộc đời, ông đã làm. Ông cũng từng có một thời oanh liệt. Dù người ta có nói khác đi thế nào chăng nữa thì bản thân ông vẫn luôn thấy tự hào về một thời tuổi trẻ đó. Cái ông cần trong kiếp người là thấy mình đã sống đủ, chứ không phải sống lâu.

Ông Nguyễn ngồi bệt xuống tấm thảm sàn, thở dốc. Ánh lửa tưởng như sắp tắt trong chiếc lò sưởi lại có dịp bùng lên, nhảy nhót. Ông cố giữ cho chiếc lưng được thẳng bằng ý chí kiên cường của kẻ đã được tôi luyện trong chiến tranh. Mắt nhìn thẳng về phía trước. Một vòm sáng hắt lên khuôn mặt đã chai sạn và đầy nếp nhăn của ông. Ở đó không có chỗ cho những cảm xúc yếu đuối và sự mệt mỏi. Ông tự nhủ là phải mạnh mẽ cho đến phút cuối. Hàm râu bạc trắng màu cước lâu ngày không được ông chăm sóc, chìa ra ương ngạnh như chiếc bờm sư tử. Ông không nhớ lần cạo râu cuối cùng cách nay đã bao nhiêu ngày tháng. Khi con người ta đang bận đấu tranh với thần chết, có ai lại đi quan tâm đến chuyện râu tóc bao giờ.

3.
Một đêm, hàng xóm bỗng bị đánh thức bỡi tiếng còi hụ và ánh đèn của xe cứu thương. Chiếc xe dừng hẳn lại phía trước nhà ông Nguyễn. Chỉ ít phút sau, người ta thấy ông được đưa ra khỏi nhà trên chiếc cán có bánh xe đẩy, đi kèm theo là hai nhân viên người da đen khá lực lưỡng trong sắc phục màu trắng của bệnh viện. Loáng mắt, chiếc xe cứu thương hú còi rời đi, bỏ lại phía sau vô số lời đồn đoán từ những kẻ láng giềng về sức khỏe của người đàn ông châu Á cô độc. Tuyết vẫn rơi không ngừng. Trên khoảng đường trước nhà ông Nguyễn, mặt đất lại phẳng lì một màu tuyết trắng như cũ, không ai biết được nơi ấy ít phút trước đã từng có dấu bánh xe đi qua. Khu phố trở lại vẻ yên tĩnh vốn có của nó. Đêm vẫn vô tình trôi.

4.
Trong căn phòng của một bệnh viện nọ, vị linh mục già người da trắng đứng hướng khuôn mặt buồn rầu về phía chiếc giường có xác người đàn ông châu Á đang nằm bất động, đọc những lời kinh nguyện với mong muốn linh hồn kẻ chết được cứu rỗi về nước Chúa. Bên cạnh vị linh mục còn có một bác sĩ và hai nữ y tá, những người đã chứng kiến giây phút sau cùng của kẻ xấu số. Không có ai là thân nhân của người đàn ông đang nằm kia. Với ước nguyện cuối cùng trước khi nhắm mắt, người đàn ông nọ muốn xác mình phải được hỏa thiêu. Ông đồng ý hiến tặng tất cả tài sản của mình cho một trung tâm chuyên giúp kẻ cơ nhỡ và những người vô gia cư trong khu phố nơi ông đã sống, tất nhiên là sau khi đã trừ đi các khoảng chi phí cho bệnh viện và việc tống táng. Trong suốt cuộc đời mình, kẻ xấu số nọ không bao giờ tin vào thần thánh, và không ít lần ông đã cười cợt vào niềm tin tôn giáo của kẻ khác. Nhưng khi đối diện với giây phút phải lìa xa cái cõi đời đầy dẫy những phụ bạc này, ông đã đồng ý trở thành một tín đồ và chịu làm lễ rửa tội, không phải vì tin vào thiên đường và phép màu của sự cứu rỗi, mà vì vị linh mục kia đã làm ông thật sự hoảng sợ địa ngục.

Gần một tuần sau, xác ông Nguyễn được đưa đến nơi hỏa thiêu. Người ta lại thấy có rất đông người đồng hương của ông, như một sự trớ trêu đến bất ngờ cho kẻ đang nhắm mắt. Trong số đó, có vài vị tự nhận là người đại diện cho các hội đoàn. Thậm chí, có người còn nhận mình đã từng là bạn bè ông trong những năm tháng chiến tranh. Họ đến cùng với các vòng hoa phúng điếu, và cả những giọt nước mắt. Trước quan tài của kẻ chết, một bài điếu văn với đầy những lời lẽ thương tiếc được đọc lên. Người ta vinh danh những chiến công của ông trong quá khứ. Và hơn hết thảy, ông được xưng tụng như một anh hùng.

5.
Trên bậc thềm, phía trước nhà ông Nguyễn, ai đó đã đặt một vòng hoa cùng cây đèn cầy đang cháy dở. Bọn trẻ không dám héo lánh đến vì sợ hồn ma của kẻ chết. Những người hàng xóm bắt đầu kể lể về những tính tốt của ông trong các câu chuyện vãn. Cho đến giây phút sau cùng, những kẻ láng giềng này vẫn không tài nào đánh vần đúng được họ của kẻ đã chết. Một thời gian sau, ngôi nhà được bán cho người khác. Kể từ đó, không còn nghe ai nhắc đến ông nữa. Người ta lãng quên ông, như đã từng lãng quên bao kẻ vô danh khi lìa bỏ cuộc đời phiền muộn này.

Chicago, 2014.

Nguyễn Văn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,648,466
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Tôi mơ mơ màng màng nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ bên cạnh giường ngủ, và vội vàng ngồi bật lên vì đã gần 12 giờ trưa. Đầu óc tôi vẫn còn choáng váng và khó chịu lắm, nhưng nghĩ tới mảnh giấy mẹ để trên gối, tôi chạy vội ra nhà bếp không kịp đánh răng rửa mặt. Tối hôm qua, phải nói là sáng nay mới đúng
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Nhạc sĩ Cung Tiến