Hôm nay,  

Khi Người Lính Chết Già

02/05/201400:00:00(Xem: 16585)
Tác giả: Nguyễn Văn
Bài số 4200-14-29610vb6050214

Với cách viết nghiêm túc, tác giả đã nhận giải vinh danh 2012. Bài viết cuối tháng Tư của Nguyễn Văn kèm theo lời đề tặng trân trọng: Thân tặng các thế hệ ly hương. Và xin vinh danh những người đã nằm xuống âm thầm, khi trong tim vẫn luôn mang theo một tình yêu nước Việt chân thành.

* * *

1.
Ngôi nhà nơi ông Nguyễn ở trong suốt phần đời còn lại của mình nằm trên con đường một chiều, thuộc khu ngoại ô khá vắng vẻ của Chicago. Nhà có hai phòng ngủ, vách bằng gỗ, trông nhỏ bé tựa như cái mobile home. Hàng xóm bảo ông dọn đến ở đó từ lâu lắm, nhưng chính xác vào năm nào thì không ai nhớ rõ. Không ai biết ông làm nghề gì. Họ bảo trước đây có người đàn bà sống chung với ông, nhưng khoảng vài năm sau bà ta lại bỏ đi. Cũng không thấy hai người có con cái gì. Cứ mỗi mùa hè, họ lại thấy ông bận rộn trong khu vườn sau nhà. Trên khoảng đất rộng chừng chục mét vuông ấy mọc lên đủ các loại rau xanh, nhiều loại chẳng biết tên gọi là gì, có cả giàn bầu trái màu trắng xám, dài bằng chiều cao của đứa con nít. Nhiều người nghĩ ông là dân phillippines vì nước da nâu sậm đặc trưng của thổ dân vùng hải đảo nhiệt đới. Trong mắt họ, đó là một ông già châu Á rất thạo nghề làm vườn nhưng có cuộc sống khép kín và cô độc đến lập dị.

2.
Suốt mùa đông năm ấy, hầu như chiều nào cũng vậy, người ta lại thấy ông Nguyễn ngồi lặng lẽ bên khung cửa sổ ở phòng khách, nhìn tuyết rơi. Trong phòng chẳng thấy bày biện đồ đạc gì nhiều. Vách phòng sơn màu trắng ngà, đôi chỗ nước sơn đã bắt đầu tróc lở. Thảm trải sàn mòn vẹt, trông cũ kỹ đến thảm hại. Một chiếc bàn gỗ nhỏ nằm gần bên cửa sổ, mặt làm bằng kính với vô số vết trầy xướt, trên đặt bộ ấm trà bằng sứ. Trong phòng chỉ độc nhất một chiếc ghế bằng mây đan, loại có tay cầm. Có vẻ đã lâu, chủ nhân căn nhà chưa hề tiếp một người khách nào. Trên mặt bàn, chén trà uống dở đã nguội lạnh từ lâu. Phòng không có tivi. Trên phía vách đối diện với khung cửa sổ treo đơn độc một chiếc nón sắt, loại mũ những người quân nhân hay dùng ở chiến trường. Chiếc mũ đã sờn cũ và phủ đầy bụi, chừng như nó được treo ở đó từ lâu lắm rồi.

Dụi điếu thuốc trong chiếc gạt tàn, ông Nguyễn đứng lên, dáng xiêu quẹo bước về phía góc phòng, đưa tay nhặt những thanh củi đã chuẩn bị sẵn, bỏ vào chiếc lò sưởi. Mấy tháng nay, ông thấy người yếu hẳn đi. Các khớp xương như muốn tách rời ra và không ngừng đau nhức mỗi khi trời trở lạnh. Chỉ đi chừng vài bước chân nhưng ông cảm thấy khó nhọc như thể phải vượt qua một quãng đường dài. Cả thân hình, lúc nào cũng muốn khụy hẳn xuống, đổ nhào về phía trước. Lần nào tới phòng mạch, sau khi khám xong, bác sĩ cũng đưa cho ông mảnh giấy ghi hàng lố tên thuốc. Ra vẻ như đang chú ý lắm, nhưng khi về đến nhà ông lại bỏ ngoài tai tất cả lời dặn dò của tay thầy thuốc. Không ai hiểu được bệnh của ông bằng chính bản thân ông. Điều phải làm trong cuộc đời, ông đã làm. Ông cũng từng có một thời oanh liệt. Dù người ta có nói khác đi thế nào chăng nữa thì bản thân ông vẫn luôn thấy tự hào về một thời tuổi trẻ đó. Cái ông cần trong kiếp người là thấy mình đã sống đủ, chứ không phải sống lâu.

Ông Nguyễn ngồi bệt xuống tấm thảm sàn, thở dốc. Ánh lửa tưởng như sắp tắt trong chiếc lò sưởi lại có dịp bùng lên, nhảy nhót. Ông cố giữ cho chiếc lưng được thẳng bằng ý chí kiên cường của kẻ đã được tôi luyện trong chiến tranh. Mắt nhìn thẳng về phía trước. Một vòm sáng hắt lên khuôn mặt đã chai sạn và đầy nếp nhăn của ông. Ở đó không có chỗ cho những cảm xúc yếu đuối và sự mệt mỏi. Ông tự nhủ là phải mạnh mẽ cho đến phút cuối. Hàm râu bạc trắng màu cước lâu ngày không được ông chăm sóc, chìa ra ương ngạnh như chiếc bờm sư tử. Ông không nhớ lần cạo râu cuối cùng cách nay đã bao nhiêu ngày tháng. Khi con người ta đang bận đấu tranh với thần chết, có ai lại đi quan tâm đến chuyện râu tóc bao giờ.

3.
Một đêm, hàng xóm bỗng bị đánh thức bỡi tiếng còi hụ và ánh đèn của xe cứu thương. Chiếc xe dừng hẳn lại phía trước nhà ông Nguyễn. Chỉ ít phút sau, người ta thấy ông được đưa ra khỏi nhà trên chiếc cán có bánh xe đẩy, đi kèm theo là hai nhân viên người da đen khá lực lưỡng trong sắc phục màu trắng của bệnh viện. Loáng mắt, chiếc xe cứu thương hú còi rời đi, bỏ lại phía sau vô số lời đồn đoán từ những kẻ láng giềng về sức khỏe của người đàn ông châu Á cô độc. Tuyết vẫn rơi không ngừng. Trên khoảng đường trước nhà ông Nguyễn, mặt đất lại phẳng lì một màu tuyết trắng như cũ, không ai biết được nơi ấy ít phút trước đã từng có dấu bánh xe đi qua. Khu phố trở lại vẻ yên tĩnh vốn có của nó. Đêm vẫn vô tình trôi.

4.
Trong căn phòng của một bệnh viện nọ, vị linh mục già người da trắng đứng hướng khuôn mặt buồn rầu về phía chiếc giường có xác người đàn ông châu Á đang nằm bất động, đọc những lời kinh nguyện với mong muốn linh hồn kẻ chết được cứu rỗi về nước Chúa. Bên cạnh vị linh mục còn có một bác sĩ và hai nữ y tá, những người đã chứng kiến giây phút sau cùng của kẻ xấu số. Không có ai là thân nhân của người đàn ông đang nằm kia. Với ước nguyện cuối cùng trước khi nhắm mắt, người đàn ông nọ muốn xác mình phải được hỏa thiêu. Ông đồng ý hiến tặng tất cả tài sản của mình cho một trung tâm chuyên giúp kẻ cơ nhỡ và những người vô gia cư trong khu phố nơi ông đã sống, tất nhiên là sau khi đã trừ đi các khoảng chi phí cho bệnh viện và việc tống táng. Trong suốt cuộc đời mình, kẻ xấu số nọ không bao giờ tin vào thần thánh, và không ít lần ông đã cười cợt vào niềm tin tôn giáo của kẻ khác. Nhưng khi đối diện với giây phút phải lìa xa cái cõi đời đầy dẫy những phụ bạc này, ông đã đồng ý trở thành một tín đồ và chịu làm lễ rửa tội, không phải vì tin vào thiên đường và phép màu của sự cứu rỗi, mà vì vị linh mục kia đã làm ông thật sự hoảng sợ địa ngục.

Gần một tuần sau, xác ông Nguyễn được đưa đến nơi hỏa thiêu. Người ta lại thấy có rất đông người đồng hương của ông, như một sự trớ trêu đến bất ngờ cho kẻ đang nhắm mắt. Trong số đó, có vài vị tự nhận là người đại diện cho các hội đoàn. Thậm chí, có người còn nhận mình đã từng là bạn bè ông trong những năm tháng chiến tranh. Họ đến cùng với các vòng hoa phúng điếu, và cả những giọt nước mắt. Trước quan tài của kẻ chết, một bài điếu văn với đầy những lời lẽ thương tiếc được đọc lên. Người ta vinh danh những chiến công của ông trong quá khứ. Và hơn hết thảy, ông được xưng tụng như một anh hùng.

5.
Trên bậc thềm, phía trước nhà ông Nguyễn, ai đó đã đặt một vòng hoa cùng cây đèn cầy đang cháy dở. Bọn trẻ không dám héo lánh đến vì sợ hồn ma của kẻ chết. Những người hàng xóm bắt đầu kể lể về những tính tốt của ông trong các câu chuyện vãn. Cho đến giây phút sau cùng, những kẻ láng giềng này vẫn không tài nào đánh vần đúng được họ của kẻ đã chết. Một thời gian sau, ngôi nhà được bán cho người khác. Kể từ đó, không còn nghe ai nhắc đến ông nữa. Người ta lãng quên ông, như đã từng lãng quên bao kẻ vô danh khi lìa bỏ cuộc đời phiền muộn này.

Chicago, 2014.

Nguyễn Văn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,323,484
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách "Xin Em Tấm Hình". Bài mới nhất của tác giả là một du ký về Prague, trước đây là thủ đô Tiệp Khắc, nay thuộc cộng hòa Czech. Đây là nơi có khu thương mại Việt lớn nhất Âu châu.
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả là một du ký kể về chuyến du lịch Thụy Sĩ trên tuyến xe điện kỳ thú có tên Bernina Express.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”, kể chuyện tác giả bay đến thăm đôi bạn Mỹ bảo trợ tại vùng vịnh Tillamook, Oregon.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016, bài viết thứ tư của ông là chuyện tình của một người... trúng số.
Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, nhận giải bán kết - thường được gọi đùa là giải á hậu 2001. Từ nhiều năm qua, ông là thành viên ban tuyển chọn chung kết. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã.
Tác giả tên thật là Trương Nguyên Thuận, tuổi 60', cựu sĩ quan không quân VNCH, di tản sang Mỹ từ 1975, kỹ sư điện toán, từng làm việc với Hewlett Packard/ Houston... rồi mở lò dạy võ tại Houston. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2004. Sau nhiều năm ngưng viết, ông vừa trở lại với sức viết mạnh mẽ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải đặc biệt năm thứ mười tám. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Theo bài viết, tại Việt Nam cô học đại học tổng hợp ngoại ngữ. Mười ba năm trước, sau khi kết hôn với một nhạc sĩ Mỹ, cô theo chồng về Sonoma County, vùng đất nổi tiếng với vượu vang của Napa Valley. Hiện nay, gia đình đã dọn về San Diego và tác giả đang làm công việc thông dịch viên chính thức của Tòa Án Liên Bang. Mong Quynh Gibney tiếp tục viết.
Nhạc sĩ Cung Tiến