Hôm nay,  

Quà Cho Mẹ Nhân Lễ Vu Lan

12/08/201400:00:00(Xem: 15720)

Tác giả: Nguyễn Trần Diệu Hương
Bài số 4298-14-29698vb2081214

Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80 khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết "Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi," kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Sau đây là bài viết mới của cô.

* * *

Thời thơ dại, con gái chơi bán hàng, chơi nấu ăn bằng mấy mẫu đồ chơi nhựa đủ màu: ly, chén, muỗng, nĩa, tô, dĩa, nồi niêu... làm rất khéo, trông giống như đồ thật thu nhỏ lại.

Chúng tôi mỗi đứa nấu một món, bắt chước những món ăn mình được Mẹ nấu hàng ngày. Lá bông giấy cắt nhỏ làm rau mồng tơi, những mụt măng non mới nhú làm mướp hương, tôm khô là hoa dâm bụt màu đỏ vo nhỏ. Chỉ có món gỏi đu đủ là giống như thật cũng là đu đủ non xắt thành sợi, trộn đậu phụng rang giả nhỏ. Có hôm, chúng tôi còn lén lấy lạp xưởng thật nướng lên, trộn chung, nhìn hấp dẫn như thật.

Tất cả những điều đó chúng tôi học lóm từ Mẹ, từ những món ăn hàng ngày. Mẹ nuôi chúng tôi lớn không phải chỉ bằng thực phẩm mà còn bằng tấm lòng của một bà Mẹ. Mẹ chỉ cho chúng tôi hình ảnh con chim mẹ mớm mồi cho con chim con trong tổ, chim non càng lớn lông cánh phởn phơ, chim mẹ càng xơ xác. Rồi Mẹ chỉ cho chúng tôi hình ảnh con gà mái vừa đẻ trứng, xù lông cánh, gầm lên dữ tợn, tuyệt vọng khi người ta lấy trái trứng còn nóng hổi ra khỏi ổ của nó. Và hình ảnh con mèo mẹ thất thần, dáo dác tìm kiếm khi về lại ổ thấy mất đi một con mèo con.

Bên cạnh lời nói, Mẹ còn dạy chúng tôi bằng hình ảnh và gương sáng: sự hiếu thảo của Mẹ với bà ngoại và cả bà nội. Chúng tôi lớn lên trong suối nguồn yêu thương và sự hy sinh vô bờ của Mẹ chúng tôi, cũng như những bà mẹ Việt Nam, những bà mẹ đủ mọi màu da.

Phong tục Việt Nam không có kiểu bày tỏ tình cảm lộ liễu như phong tục của người Mỹ nhưng tôi tin người Việt Nam thương Mẹ sâu đậm hơn mặc dù không có kiểu nói "I love you". "You are the love of my life" như người Mỹ. Vì những bà Mẹ Việt Nam trong nhiều thập niên không chỉ "vượt cạn một mình" mà còn nuôi con một mình trong chiến tranh, và ngay cả trong hòa bình khi cả trăm trại cải tạo mọc lên từ Bắc vô Nam để giam giữ những người vô tội.

Cứ nhìn một người Mẹ VN gầy yếu, mong manh, gánh hai đứa con nhỏ ở hai đầu thúng chạy giặc, lại còn chạy nhanh hơn những người khác đi tay không mới thấy tình mẫu tử làm người ta mạnh như thế nào. Hãy tưởng tượng một bà Mẹ Việt Nam gầy ốm chưa đến 40kg, tóc bạc phơ tay xách nách mang vựơt dốc thăm con trong lao tù cải tạo mới thấy lòng Mẹ thương con vô bờ.

Có một lần trong thời thơ dại, tôi đi theo Mẹ lên trại tù Gia Trung ở Gia Lai thăm Ba đang bị "cải tạo" ở đó. Chuyến đi có bà cụ thân sinh của một người bạn tù của Ba đi cùng. Vợ của chú đang nằm bệnh viện, đến ngày được phép thăm nuôi (nếu tôi nhớ không lầm mỗi năm chỉ được đi thăm một lần), bà cụ lúc đó đã ngoài bảy mươi, lặn lội đi thăm con. Con dâu của cụ gởi gấm cụ cho Mẹ tôi. Đường đi vào trại cải tạo Gia Trung (đúng ra phải gọi là trại tù, hay "tầng đầu địa ngục" như ngôn ngữ của Nhà Văn người Nga Aleksandr Isayevich Solzhenitsy) đường vừa dốc, vừa lồi lõm, trời nắng chang chang, không một bóng cây, không một ngọn gió. Một người trẻ đi tay không gần hai cây số chắc cũng "mệt cầm canh, thấy đủ 36 ngôi sao giữa ban ngày". Vậy mà bà cụ, tay xách nách mang thức ăn, thuốc men thăm nuôi cho ông con trai là cựu Sĩ quan QLVNCH, đi thoăn thoắt, tôi đi còn chậm hơn bà. Vì nôn nóng muốn gặp con, và vì tình thương của một người mẹ, bà cụ không thấy mệt. Bận về, bà cụ hầu như lê từng bước một cách mệt nhọc, có lẽ vì đường xa thấm mệt, bao nhiêu sức lực đã dùng hết ở lượt đi. Mà cũng có lẽ vì hình ảnh ốm o gầy mòn, râu tóc lốm đốm bạc của ông con trai ở tuổi chưa đến 40 mà hốc hác như một ông lão sáu mươi làm bà cụ suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác. Bà đã nói với Mẹ tôi với cặp mắt ngấn lệ:


- Giá mà người ta cho tôi ở tù thay cho anh ấy.

Câu nói đó tôi đã nghe nhiều lần từ nhiều cụ bà khác nhau, và cả từ chính bà nội của tôi. kèm theo những tiếng thở dài nảo ruột vào cuối thập niên 70. Những bà Mẹ Việt Nam tóc đang mới chớm màu tiêu muối bỗng bạc trắng trong một vài ngày mặc dù không phải bận lòng đến quốc gia đại sự như Ngũ Tử Tư ngày xưa.

Lúc đó còn nhỏ tôi chỉ thấy câu nói đó là một ước muốn không thể thực hiện được. Sau này, lớn khôn, tôi hiểu đó còn là một biểu hiện của "lòng mẹ bao la như biển Thái bình rạt rào".

Trong mắt của các bà mẹ, con của mình dù lớn đến đâu, dù đã thành ông to bà lớn, vẫn mãi mãi là một đứa con nhỏ cần được chở che, bảo vệ. (Như bà Barbara Bush đã nhấc điện thoại la mắng, nhắc nhở con trai của mình phải ăn uống từ tốn cẩn thận hơn khi ông Tổng thống thứ 43 của Mỹ đang tại chức bị nghẹn vì một miếng bánh pretzel)

Như bao bà mẹ khác trên đời, Mẹ chúng tôi cũng vậy, câu "kinh nhật tụng" chúng tôi nghe không còn nhớ là bao nhiêu lẩn hồi còn nhỏ dại:

"Tụi con khỏe manh, ngoan ngoãn, học giỏi là phần thưởng lớn nhất cho Mẹ, Mẹ không dám đòi hỏi thêm điều gì!

Ngày chuẩn bị đưa chúng tôi vượt biển, mỗi tối bên cây đèn dầu, "kinh nhật tụng" của Mẹ trở thành:

"Sau này ở xứ lạ quê người, có muốn trả hiếu cho cha mẹ thì phải cố gắng mà học hành, sống cho đàng hoàng, đừng đua đòi ham chơi."

Khi trưởng thành, ở xa Mẹ cả một đại dương, câu nói kết thúc sau mỗi lần chúng tôi nói chuyện với Mẹ qua điện thoại vẫn là:

"Tụi con khỏe mạnh, công ăn việc làm tốt đẹp, anh chị em khi nào cũng biết đoàn kết, thương yêu nhau là Mẹ vui lắm rồi, Mẹ không cần điều gì khác".

Lúc còn trẻ, Mẹ hy sinh mọi thứ, mọi nhu cầu của mình để chìu theo những đòi hỏi trẻ con của chúng tôi. Hình như với bất cứ một người Mẹ nào nhu cầu của chính bản thân luôn là thứ yếu, đứng sau nhu cầu của con cái. Bầy con còn dại, chưa biết nghĩ suy, cứ mở miệng đòi hỏi hết thứ này đến thứ khác. Và tận hưởng suối nguồn yêu thương ngọt ngào của Mẹ mà nhiều khi không biết mình đang có một tình thương vô bờ của Mẹ.

Khi Ba Mẹ qua Mỹ thăm chúng tôi, giữa một đất nước văn minh, giàu mạnh, hàng hóa đầy ắp thu hút du khách mọi nơi trên thế giới, Mẹ chỉ muốn ở nhà nấu những món ăn chúng tôi thích. Những món ăn Việt Nam bình thường nhưng chúng tôi ăn thấy ngon hơn cả các món ăn được nấu bởi những tay đầu bếp cừ khôi, chuyên nghiệp. Vì đã trưởng thành, chúng tôi cảm nhận được tấm lòng của Mẹ gởi theo từng món ăn. Mỗi món ăn do chính tay Mẹ nấu khi tóc đã ngả màu sương khói luôn đem chúng tôi về với một thời thơ dại bình yên lúc cả nhà còn đoàn tụ đông vui, hay ngay cả lúc Mẹ ngược xuôi bươn chải nuôi chồng ở trong tù và nuôi con một mình.

Không phải là "mùa nào thức ây" mà "đứa nào món ấy", Mẹ hiểu tính nết từng đứa con. Thời thơ dại đi học về, lúc trưởng thành đi làm về, trên bàn có món ăn đúng ý mình do chính tay Mẹ làm, ăn ngon hơn cao lương mỹ vị trên đời, tưởng là mình đã rất hạnh phúc. Nhưng nhìn vẻ hài lòng, hả hê trong mắt Mẹ, chừng như Mẹ còn hạnh phúc hơn cả mình.

Mãi đến lúc nửa đời người chúng tôi mới hiểu Mẹ là người quan trọng nhất trên đời, là hạnh phúc lớn nhất cuộc đời ban cho mỗi chúng tôi. Không chỉ đợi đến lễ Vu Lan được cài một hoa hồng đỏ trên áo, tôi vốn không mê đồ trang sức, vẫn có những cái pink cài áo hình hoa hồng, và ít nhất là bốn đôi bông tai hoa hồng để mang quanh năm, không phải để làm dáng mà để tự nhắc mình vẫn có được diễm phúc còn Mẹ trên đời, còn có người thương yêu mình vô điều kiện.

Xin mượn những dòng này để làm món quà dâng lên Mẹ của chúng con. Cầu mong Mẹ luôn được thân tâm an lạc để tụi con có dịp đền bù phần nảo những hy sinh Mẹ đã dành cho tụi con. Xin cùng các em, hứa với Mẹ những lời dạy của Mẹ, "những câu kinh nhật tụng" tụi con nghe hoài không chán sẽ theo tụi con suốt cuộc đời.

Nguyễn Trần Diệu Hương

Vu Lan 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,429,595
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20. Bà tên thật Trần Ngọc Ánh sinh 1955, sau khi đi tù gần 11 năm về tội chống Cộng Sản từ đầu 1979 đến cuối 1989, đã tốt nghiệp Đại học năm 1995 ngành Quản trị kinh doanh tại VN. Sang Mỹ định cư theo diện kết hôn năm 2007, hiện đang sống tại thành phố Victorville, miền Nam California. Nghề nghiệp nội trợ. Sau đây, thêm bài viết đầu năm mới của bà.
Chúc Mừng Năm Mới Kỷ Hợi 2019. Viết Về Nước Mỹ bắt đầu năm Canh Thìn 2000. Từ Thìn tới Hợi, vừa đúng 20 năm. Ngày đầu năm Hợi, xin mời đọc bài Tết của Lê Nguyễn Hằng. Tác giả là một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài sau đây trích từ báo xuân Tết Kỷ Hợi 2019.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Mừng Tết Kỷ Hợi đang tới, mời đọc chuyện tình tất niên của tuổi hạc.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Sau đây là bài viết thứ ba của cô.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bài mới của tác giả kể về khóa Thiền Vipassanna 10 ngày mà bà đã tham dự. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi, đang phát hành khắp nơi.
Tác giả tên thật Quách Ngọc Ánh, sinh năm 1954, hiện là cư dân Garden Grove, CA. Trước 75 học Sư phạm Sai gon, một thời dạy học tại miền Trung Việt Nam, định cư tại Hoa kỳ theo diện H.O. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà từ Tháng Sáu 2013 là một hồi ức xúc động về việc đi tìm người thân chết khi vượt biển. Sau đây thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật là Trần Văn Hai, hiện đã là cư dân hưu trí tại Nashville, TN. Thư ông viết: Tôi thường xuyên theo dõi và đọc bài viết trên trang Việt báo online. Đây là bài viết tôi gởi về cho tòa soạn đầu tiên, mong nhận được sự góp ý. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là bước khởi hành tốt: gọn nhẹ, giản dị và thành thực. Mong tác giả tiếp tục.
Tác giả quê gốc Kinh 5 Rạch Giá, hiện là cư dân Seattle, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010. Ba bài đã viết là chuyện 30 năm của gia đình bà: Vượt biển tới đảo tị nạn, sau 7 năm chờ đợi, bị buộc phải hồi hương. Nhờ chương trình ROV, gia đình vẫn tới được nước Mỹ, và với sức phấn đấu chung, tất cả đã đứng vững.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Bài viết sau đây được trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019, hiện đang phát hành khắp nơi.
Nhạc sĩ Cung Tiến