Hôm nay,  

Số mệnh chữ "ĐÀO"

14/11/201400:00:00(Xem: 19036)

Tác giả: Y Châu
Bài số 4385-14-29785vb6111414

Tác giả là cư dân Miami, đã góp nhiều bài viết tinh tế, luôn cho thấy tấm lòng của ông với đất đai, cây trái quê hương. Bài mới của ông kể về một quẻ bói liên quan đết trái đào.

* * *

Ở Hợp Chủng Quốc thực phẩm tại các chợ không thiếu thứ gì, từ sản xuất tại nội địa hay nhập cảng. Trên mỗi loại hàng hóa đều có ghi nơi sản xuất. Trái đào có lông (peaches) màu vàng ửng hồng, theo trí tưởng tượng của tôi thì giống trái đào tiên mà Tề Thiên ăn, khi "Đại Náo Thiên Cung".

Nhắc tới trái đào, tôi bỗng nhớ bạn Quang và “Ông Thầy”.

Đã lâu lắm, cái thuở mà khí chất còn sung mãn, cứ quanh quẩn một nơi rất buồn chán, thì Quang gợi ý là chúng tôi đi cầu Cây Mai viếng ông thầy Năng. Thầy Năng được Quang giới thiệu là đoán vận mệnh như thần. Gia đình ông Mã, ông Nguyễn mỗi lần đến đây đều phải đến vấn an.

Ông thầy Năng sống bằng nghề hạ bạc: đặt lờ, đặt lọp,... coi quẻ chỉ là việc phụ để "cứu nhân độ thế", không lấy tiền. Những người đến viếng thường tự nguyện đem nhang đèn, để làm lễ cúng bái; sau khi được thầy Năng xem, nếu thấy linh ứng người ta sẽ trở lại hậu tạ, tùy hỷ.

Lúc chúng tôi đến không gặp thầy, bước ra bờ kinh chuẩn bị ra về, thì thấy thầy Năng đang điều khiển chiếc xuồng chở đầy ngư cụ vừa cặp bến.

Trước bàn thờ rất đơn giản, hương trầm bay tỏa khắp nơi, thầy xem vận mệnh của tôi. Thầy hỏi về nhân thân: giờ, ngày, tháng, năm,... thầy Năng nghiêm trang tập trung thần lực khấn vái, rồi lấy tờ giấy hồng đơn, viết cho vô phong bì đưa cho tôi và căn dặn khi về nhà hãy xem!

Nhưng khi rời khỏi nhà thầy thì Quang nôn nóng đòi xem thầy viết gì, vì mỗi lần thầy xem cho ai thầy đưa ngay lời khuyên, có khi nào thầy viết vô giấy để đem về đâu à.

Khoa Phong Thủy, khoa Tướng Số,... đều được đúc kết từ những kinh nghiệm của người xưa, một mặt nào đó cũng giúp ích cho thế nhân ít đơn điệu tẻ nhạt. Nhưng khi chúng ta tin tưởng ơn trên sắp đặt cho mỗi người một số mệnh, nên chăng trong kiếp nầy, khi ta làm việc gì cũng hết mình và sống cho tốt với những người chung quanh, không chừng còn cải số. Khi có "huyền cơ" (nếu ta tin), rồi nhờ thầy lộ bí mật để ta biết rõ quá khứ vị lai, thì cuộc sống của ta khác nào "cái máy", mất đi yếu tố bất ngờ thú vị.

blank
Cành đào trĩu trái.

Quang mở phong bì ra xem thì chỉ có một chữ viết thảo, không rõ ràng, giống như chữ "ĐIỀU", nhưng Quang nói là chữ "ĐÀO". Quang truyền kinh nghiệm cho tôi, thông thường thì mấy ông thầy nói là: "Đào" là số đào hoa, hay "Tiền hung, hậu kiết" là lúc đầu có ít nhiều trắc trở, nhưng hậu vận thì hạnh thông...Tôi định trở lại hỏi thầy Năng cho ra lẻ, nhưng thôi vì đào hay điều cũng không đúng cho tôi chút nào.

- "Đào hoa": tôi không có điều kiện, tướng mạo không dễ nhìn, bắt mắt người khác phái; hơn nữa nói năng không ngọt ngào, mềm mỏng để lấy lòng người, thấy chuyện bất bình là cải hoài không thôi. Đâu có ai chịu nổi, thì làm sao có số đào hoa.

- "Điều": có phần chung chung, ở chỗ tôi người ta trồng điều (đào lộn hột) đầy dẫy. Nhưng còn nhiều chuyện, lắm điều?


"Im lặng là vàng".

*

Sau khi được ở nhiều nơi từ Đồng, Bắc, tới Tây,... thì nghe tin là chúng tôi được đưa đến một chỗ mà nghe tên là thấy thích ngay. Nơi đây, tôi lưu trú không lâu, chừng mấy năm, đó là vườn đào. Giống như cái tên mà mấy ngàn năm trước Tề Thiên Đại Thánh (truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân), lén vào ăn hết đào tiên, khi no nê rồi "hô biến" thành chú kiến nằm ngủ trong trái đào. Nhờ ăn hết vườn đào nên giúp cho Tề Thiên trường thọ, và con cháu bây giờ đông vô kể.

Chúng tôi đến vườn đào vào lúc trời tối, được sư huynh đệ dẫn vào chỗ qua đêm. Đường xá xa xôi, mệt mỏi, sáng hôm sau khi thức dậy thì mặt trời đã lên cao. Chung quanh thì trống trơn, đất màu vàng đặc, chung quanh toàn năng, đưng, lác. Ngoài kia con kinh, thấp thoáng những cây tràm, cây bảy thưa, cây bình bát, song song là con đường nhựa, đá loang lổ bụi mù bay lên mỗi khi có một chiếc xe chạy qua.

Tôi hỏi những người chung quanh về địa danh vườn đào? Họ nói: khi họ đến đây chẳng thấy gốc đào nào! Chắc là lúc ăn trộm đào tiên, vô tình Tề Thiên làm rớt hột đào xuống nơi đây, nhưng thổ nhưỡng không thích hợp nên không còn cây đào nào.

Vườn đào chẳng thấy đào tiên
Nước phèn trong vắt, bóng nghiêng kinh đào

Hết mùa nước, chúng tôi lội nước đi đào kinh để dẫn nước phèn ra sông. Nhưng đây là vùng trũng của Đồng Tháp Mười, cho dù mưa tràn đồng hay đào lắp bao nhiêu con kinh cũng không rửa hết được phèn, mà còn làm dậy phèn hại cây trồng.

Dân miệt vườn thì những loại ngũ quả mang nhiều ý nghĩa: "cầu, sung, dừa, đủ, xoài",... rất dễ trồng, còn điều (đào lộn hột) chỉ thích hợp với đất pha cát, sẽ cho năng suất cao. Trái điều lớn (nhà chuyên môn gọi ngược lại: trái là cuống, hột là trái) có hột ở phía dưới. Trái điều chín rất thơm, chua chua ngọt ngọt, có chứa nhiều nước ăn nhiều dễ ngứa ngái cổ họng. Trái điều xắt từng miếng nhỏ, kèm với rau sống, là món không thể thiếu được khi ăn bánh xèo,... Hột điều già, đem nướng cháy cái vỏ bao bên ngoài, phần nhân còn lại ở bên trong bùi bùi rất thơm. Trong cửa hàng bán lẻ tại Mỹ hiện nay có bán hạt điều khô (cashews), nhãn hiệu "Nice!", ghi nước sản xuất là Brasil, India và Vietnam. Giá đề bán xấp xỉ với đậu phọng (peanut). Tính theo giá bán này, thì nông dân trồng điều tại Việt Nam chắc không có lời, vườn điều chắc là phải đốn bỏ!

Đã lâu lắm rồi tôi không liên lạc được với Quang, nghe đâu Quang bây giờ sống ở cầu chữ "S", Cái Dầu, đã qua cái thời mà khí chất con người sung mản. Anh rất thích đi xem tướng số, ông thầy Năng ở cầu Cây Mai nếu còn ở trên dương thế chắc đã già yếu, nếu có cơ mai một lần nữa nhờ anh dẫn tôi đi viếng thầy Năng, để tạ ơn thầy Năng. Thầy đã viết cho tôi chữ "ĐÀO" (hay "ĐIỀU"), đoán vận mệnh tôi, đều không sai.

Thầy biết trước tôi sẽ lưu trú ở vườn đào. Thầy biết tôi nhiều chuyện, lắm lời sẽ không đem lợi ích gì! Nhưng mà nhiều chuyện là cái tật, chớ không phải cái bệnh nên thầy thuốc cũng chịu thua không trị được!

Xin lỗi thầy.

Y Châu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 861,997,221
Tác giả chỉ vừa tới Mỹ được mấy tháng, theo diện bảo lãnh. “Hiện vợ chồng tôi ở tạm nhà người em. Vợ tôi đi giữ trẻ. Tôi chưa có việc làm. Trong lúc rảnh rỗi, tôi muốn viết lên một phần nhỏ những gì xẩy ra trong cuộc đời em tôi và gia đình tôi.” Ông Trương viết trong thư kèm bài viết về nước Mỹ đầu tiên. Nhân vật xưng tôi trong bài là người em. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết.
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Cựu thợ lái máy bay chuồn chuồn ở Căn Cứ KQ Phù Cát - Bình Định, cựu tù chính trị, đến Mỹ từ 1980, hiện an cư lạc nghiệp tại Garden City, Kansas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2012 với chuyện tù “Trung Uý Nuôi Tôm” và đã nhận giải thưởng Viết Về Nước Mỹ từ mấy năm trước. Sau đây là bài ông cựu trung uý cho viết về nước Mỹ 2013.
Tác giả sinh năm 1981, đến Mỹ năm 2000 theo diện HO. Sau 9 năm định cư tại Mỹ, công việc hiện nay của ông là Property Manager, tại Landover, tiểu bang MD. Ông tham dự viết về nước Mỹ từ 2009 và sau đây là bài viết thứ hai. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả là cư dân châu Âu, làm việc trong một văn phòng thiết kế công chánh tại nước Pháp. Tuy sống bên kia Đại Tây Dương, những bài viết của cô thường thường rất bén nhậy với chuyện của người Việt tại Mỹ. Họp mặt Viết Về Nước Mỹ 2011, Đoàn Thị đã bay từ Paris sang để nhận giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là Giải Á Hậu. Bài viết mới của cô là tâm sự về mùa lễ tạ ơn năm nay.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Sau đây là một truyện mới của tác giả.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục naêm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Kèm theo bài viết ngắn về nhạc Mỹ thời chiến còn thêm bài thứ hai: Bạn Tôi và Nước Mỹ.
Tác giả rời Việt Nam sang Mỹ từ tháng 10 năm 1974, khi còn là một cô bé mới học lớp sáu.
Với kiểu “viết như nói”, tác giả đã góp nhiều bài viết và nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O.; Hiện là nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Bài viết mới nhất của Vành Khuyên lần này có kèm theo ít dòng sau đây:
Đó là một đêm lịch sử người Việt tỵ nạn ở hải ngoại, khi hàng chục ngàn người Việt biểu tình chống việc một người tên là Trần Trường công khai treo hình Hồ Chí Minh trong tiệm cho mướn video của anh ta tại Little Sàigòn. Nhiều năm đã qua.
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Trước năm 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Hải Âu tham dự viết về nước Mỹ từ 2010, bài đầu tiên: Mẹ Chồng, cho thấy tác giả có bút pháp đặc biệt, khi kể về hồn thiêng yêu thương của bà mẹ chồng. Bài mới nhất của tác giả viết về bà Mẹ.
Nhạc sĩ Cung Tiến