Hôm nay,  

Số mệnh chữ "ĐÀO"

14/11/201400:00:00(Xem: 18492)

Tác giả: Y Châu
Bài số 4385-14-29785vb6111414

Tác giả là cư dân Miami, đã góp nhiều bài viết tinh tế, luôn cho thấy tấm lòng của ông với đất đai, cây trái quê hương. Bài mới của ông kể về một quẻ bói liên quan đết trái đào.

* * *

Ở Hợp Chủng Quốc thực phẩm tại các chợ không thiếu thứ gì, từ sản xuất tại nội địa hay nhập cảng. Trên mỗi loại hàng hóa đều có ghi nơi sản xuất. Trái đào có lông (peaches) màu vàng ửng hồng, theo trí tưởng tượng của tôi thì giống trái đào tiên mà Tề Thiên ăn, khi "Đại Náo Thiên Cung".

Nhắc tới trái đào, tôi bỗng nhớ bạn Quang và “Ông Thầy”.

Đã lâu lắm, cái thuở mà khí chất còn sung mãn, cứ quanh quẩn một nơi rất buồn chán, thì Quang gợi ý là chúng tôi đi cầu Cây Mai viếng ông thầy Năng. Thầy Năng được Quang giới thiệu là đoán vận mệnh như thần. Gia đình ông Mã, ông Nguyễn mỗi lần đến đây đều phải đến vấn an.

Ông thầy Năng sống bằng nghề hạ bạc: đặt lờ, đặt lọp,... coi quẻ chỉ là việc phụ để "cứu nhân độ thế", không lấy tiền. Những người đến viếng thường tự nguyện đem nhang đèn, để làm lễ cúng bái; sau khi được thầy Năng xem, nếu thấy linh ứng người ta sẽ trở lại hậu tạ, tùy hỷ.

Lúc chúng tôi đến không gặp thầy, bước ra bờ kinh chuẩn bị ra về, thì thấy thầy Năng đang điều khiển chiếc xuồng chở đầy ngư cụ vừa cặp bến.

Trước bàn thờ rất đơn giản, hương trầm bay tỏa khắp nơi, thầy xem vận mệnh của tôi. Thầy hỏi về nhân thân: giờ, ngày, tháng, năm,... thầy Năng nghiêm trang tập trung thần lực khấn vái, rồi lấy tờ giấy hồng đơn, viết cho vô phong bì đưa cho tôi và căn dặn khi về nhà hãy xem!

Nhưng khi rời khỏi nhà thầy thì Quang nôn nóng đòi xem thầy viết gì, vì mỗi lần thầy xem cho ai thầy đưa ngay lời khuyên, có khi nào thầy viết vô giấy để đem về đâu à.

Khoa Phong Thủy, khoa Tướng Số,... đều được đúc kết từ những kinh nghiệm của người xưa, một mặt nào đó cũng giúp ích cho thế nhân ít đơn điệu tẻ nhạt. Nhưng khi chúng ta tin tưởng ơn trên sắp đặt cho mỗi người một số mệnh, nên chăng trong kiếp nầy, khi ta làm việc gì cũng hết mình và sống cho tốt với những người chung quanh, không chừng còn cải số. Khi có "huyền cơ" (nếu ta tin), rồi nhờ thầy lộ bí mật để ta biết rõ quá khứ vị lai, thì cuộc sống của ta khác nào "cái máy", mất đi yếu tố bất ngờ thú vị.

blank
Cành đào trĩu trái.

Quang mở phong bì ra xem thì chỉ có một chữ viết thảo, không rõ ràng, giống như chữ "ĐIỀU", nhưng Quang nói là chữ "ĐÀO". Quang truyền kinh nghiệm cho tôi, thông thường thì mấy ông thầy nói là: "Đào" là số đào hoa, hay "Tiền hung, hậu kiết" là lúc đầu có ít nhiều trắc trở, nhưng hậu vận thì hạnh thông...Tôi định trở lại hỏi thầy Năng cho ra lẻ, nhưng thôi vì đào hay điều cũng không đúng cho tôi chút nào.

- "Đào hoa": tôi không có điều kiện, tướng mạo không dễ nhìn, bắt mắt người khác phái; hơn nữa nói năng không ngọt ngào, mềm mỏng để lấy lòng người, thấy chuyện bất bình là cải hoài không thôi. Đâu có ai chịu nổi, thì làm sao có số đào hoa.

- "Điều": có phần chung chung, ở chỗ tôi người ta trồng điều (đào lộn hột) đầy dẫy. Nhưng còn nhiều chuyện, lắm điều?


"Im lặng là vàng".

*

Sau khi được ở nhiều nơi từ Đồng, Bắc, tới Tây,... thì nghe tin là chúng tôi được đưa đến một chỗ mà nghe tên là thấy thích ngay. Nơi đây, tôi lưu trú không lâu, chừng mấy năm, đó là vườn đào. Giống như cái tên mà mấy ngàn năm trước Tề Thiên Đại Thánh (truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân), lén vào ăn hết đào tiên, khi no nê rồi "hô biến" thành chú kiến nằm ngủ trong trái đào. Nhờ ăn hết vườn đào nên giúp cho Tề Thiên trường thọ, và con cháu bây giờ đông vô kể.

Chúng tôi đến vườn đào vào lúc trời tối, được sư huynh đệ dẫn vào chỗ qua đêm. Đường xá xa xôi, mệt mỏi, sáng hôm sau khi thức dậy thì mặt trời đã lên cao. Chung quanh thì trống trơn, đất màu vàng đặc, chung quanh toàn năng, đưng, lác. Ngoài kia con kinh, thấp thoáng những cây tràm, cây bảy thưa, cây bình bát, song song là con đường nhựa, đá loang lổ bụi mù bay lên mỗi khi có một chiếc xe chạy qua.

Tôi hỏi những người chung quanh về địa danh vườn đào? Họ nói: khi họ đến đây chẳng thấy gốc đào nào! Chắc là lúc ăn trộm đào tiên, vô tình Tề Thiên làm rớt hột đào xuống nơi đây, nhưng thổ nhưỡng không thích hợp nên không còn cây đào nào.

Vườn đào chẳng thấy đào tiên
Nước phèn trong vắt, bóng nghiêng kinh đào

Hết mùa nước, chúng tôi lội nước đi đào kinh để dẫn nước phèn ra sông. Nhưng đây là vùng trũng của Đồng Tháp Mười, cho dù mưa tràn đồng hay đào lắp bao nhiêu con kinh cũng không rửa hết được phèn, mà còn làm dậy phèn hại cây trồng.

Dân miệt vườn thì những loại ngũ quả mang nhiều ý nghĩa: "cầu, sung, dừa, đủ, xoài",... rất dễ trồng, còn điều (đào lộn hột) chỉ thích hợp với đất pha cát, sẽ cho năng suất cao. Trái điều lớn (nhà chuyên môn gọi ngược lại: trái là cuống, hột là trái) có hột ở phía dưới. Trái điều chín rất thơm, chua chua ngọt ngọt, có chứa nhiều nước ăn nhiều dễ ngứa ngái cổ họng. Trái điều xắt từng miếng nhỏ, kèm với rau sống, là món không thể thiếu được khi ăn bánh xèo,... Hột điều già, đem nướng cháy cái vỏ bao bên ngoài, phần nhân còn lại ở bên trong bùi bùi rất thơm. Trong cửa hàng bán lẻ tại Mỹ hiện nay có bán hạt điều khô (cashews), nhãn hiệu "Nice!", ghi nước sản xuất là Brasil, India và Vietnam. Giá đề bán xấp xỉ với đậu phọng (peanut). Tính theo giá bán này, thì nông dân trồng điều tại Việt Nam chắc không có lời, vườn điều chắc là phải đốn bỏ!

Đã lâu lắm rồi tôi không liên lạc được với Quang, nghe đâu Quang bây giờ sống ở cầu chữ "S", Cái Dầu, đã qua cái thời mà khí chất con người sung mản. Anh rất thích đi xem tướng số, ông thầy Năng ở cầu Cây Mai nếu còn ở trên dương thế chắc đã già yếu, nếu có cơ mai một lần nữa nhờ anh dẫn tôi đi viếng thầy Năng, để tạ ơn thầy Năng. Thầy đã viết cho tôi chữ "ĐÀO" (hay "ĐIỀU"), đoán vận mệnh tôi, đều không sai.

Thầy biết trước tôi sẽ lưu trú ở vườn đào. Thầy biết tôi nhiều chuyện, lắm lời sẽ không đem lợi ích gì! Nhưng mà nhiều chuyện là cái tật, chớ không phải cái bệnh nên thầy thuốc cũng chịu thua không trị được!

Xin lỗi thầy.

Y Châu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 857,171,491
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến