Hôm nay,  

Người Bạn Lớn

03/01/201500:00:00(Xem: 14078)
Tác giả: Tôn Nữ Thu Dung
Bài số 4429-14-29829vb7010315

Chuyện kể về người bạn cựu chiến Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Tác giả là cư dân San Dimas, California. Trước tháng Tư 1975, tại Sài Gòn, cô từng cộng tác với tần báo Tuổi Ngọc và là một trong những cây bút học trò được bạn đọc yêu mến. Với bài "Chuyện Cổ Tích Không Phải Cho Bé Thơ", tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt, Viết Về Nước Mỹ 2013.

* * *

blank
Lần chia tay nào David cũng nói:

- Có thể đây là lần cuối cùng chúng ta ngồi bên nhau... Cheers up!

Ông làm một động tác cụng ly dù trên tay ông chẳng có cái ly nào!

Mỗi năm David một yếu đi, Ông gầy gò với râu tóc bạc phơ như ông già Noel hiền lành, đôn hậu. Tôi nói:

- Không đâu David, khi ông không thể đến cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đến với ông. Chúng ta là chiến hữu mà! Tôi hứa.

David là một cựu chiến binh thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, ông rất tự hào với đoạn đời ông đã trãi qua... Mỗi năm, như thường lệ, David đi từ Minnesota đến California để cùng chúng tôi đón một mùa lễ hội từ Thanksgiving- Giáng Sinh cho đến Năm Mới.

Ông trang hoàng nhà cửa, sân vườn như một designer chuyên nghiệp vì biết rằng chúng tôi rất bận rộn vào những ngày lễ cuối năm... Chỉ cần con gái tôi reo lên: So nice! Bravo tonton... là đủ để ông rơi nước mắt... Từ chiến trường trở về, ông bị hội chứng cô độc và chán ghét con người...Đó là nguyên nhân để ông không có một gia đình riêng đầm ấm.

Khi tôi 10 tuổi, NhaTrang còn là một thị xã bé nhỏ, xinh đẹp, hiền hòa và yên bình nhất nước... Chiến tranh chỉ lãng vãng qua thị xã thơ mộng này gói gọn trong những quán Bar mọc lên ven bờ biển ngập tràn những người lính viễn chinh đủ các màu da.

Ngôi nhà tôi ở trên con đường chạy thẳng ra biển, nơi chúng tôi vẫn lang thang nhặt vỏ sò vỏ ốc trong những buổi trưa trốn ngủ... đột nhiên bị rào lại cuối đường và xây dựng một căn cứ không quân và những pháo đài che mất tầm nhìn bao la tới biển...Hai hàng dương liễu chạy dài ven đường bị đốn đi, những ổ chim sẻ, chim dòng dọc rơi tan tác... và con đường cát ấy được trải nhựa thẳng tắp, những đám cỏ Chong Chong, hoa Mắc Cở lần lượt rụi tàn để những ngôi nhà lầu cho thuê mọc lên đầy khu vực đó !

Chỉ có ngôi biệt thự của nhà tôi là không hề biến dạng, nằm im lắng giữa khoảng sân vườn hơn 2000 mét vuông, với hai hàng Trúc Đào trồng ven lối đi, rực hồng xinh đẹp. Cạnh nhà tôi, căn lầu mà một nhà thơ nổi tiếng thời ấy đã mê say đắm đuối một cô Tiếp Viên Hàng Không xinh đẹp não nùng đã viết những câu thơ mà con nhóc con 10 tuổi như tôi khi được đọc cũng biết bâng khuâng:

"Em đến cùng ta trăng hồ thủy
Sớm mai lầu hẹn cũng nghiêng buồn
Long lanh bóng xế tà dương cũ
Mộng vỡ mà sao chưa bay hương..." (PKV)

Căn lầu ấy đã vắng đi cô chủ đài các tuyệt sắc giai nhân, nàng thơ thuở ấy mà thay thế bằng mấy ông lính thủy Mỹ đẹp như tài tử ci né.

Những buổi chiều, tôi thường đánh vũ cầu với Thư trên sân, lúc ấy chúng tôi chỉ là 2 nhóc con tí xíu.

Từ trên sân thượng, mấy chú lính nhìn xuống, vỗ tay và bravo ỏm tỏi khi tôi hoặc Thư có một pha cầu tuyệt vời, một cú direct dẫn trước 11 điểm... hay ngặt nghẽo cười những lúc tôi thua và KiKi bênh vực tôi, cắn áo Thư kéo rị lại không cho Thư đánh tiếp. Ki Ki rất dễ thương nhưng không fair play chút nào... Nó che chở và bênh vực tôi bất kể đúng sai !

Ki Ki là đứa bạn chó yêu quý nhất suốt tuổi thơ tôi, nó lớn lên cùng tôi, ngủ chung phòng và ăn cùng giờ giấc...Thuở nhỏ, tôi làm biếng ăn, ngậm miếng cơm trong miệng nhơi nhơi hoài không chịu nuốt. bà vú dỗ bằng cách đưa Ki Ki ra làm gương cho tôi thấy...cái miệng Ki Ki không nhai mà nuốt rất nhanh để tôi bắt chước... Những khi tôi ra sân, Ki Ki ngồi ve vẩy tai trên thềm cao và khi tôi nhảy lên, la hét vui mừng vì dẫn điểm trước thì nó cũng nhảy theo, cũng hò reo vui mừng bằng tiếng chó chỉ mình tôi hiểu...

Cả ngày hôm đó, Ki Ki cáu giận chuyện gì không biết, nó bỏ ăn buồn bã nằm ở góc phòng, nó cũng không thèm liếm mặt tôi khi tôi úp mặt vào cổ nó dỗ dành... Nó rên ư ử như một đứa bé bị đòn oan ức...Buổi chiều, khi thấy tôi xách vợt ra sân, nó mới lững thững uể oải đi theo, hững hờ ngồi trên bậc thềm cao nhất, lơ đãng khép mắt không thèm để ý đến những rộn ràng trên sân.

Khi cú direct của David chấm dứt trận cầu, David cầm chiếc vợt gõ nhè nhẹ phần lưới cước trên đầu tôi chưa kịp nói lời từ giả thông thường: See you tomorrow, baby... thì Ki Ki nhanh như một tia chớp, phóng từ trên cao xuống, cắn vào cánh tay đang cầm vợt của David...Tôi chỉ kịp hét lên, ôm choàng lấy Ki Ki: Đừng, Ki ơi, đừng như vậy! rồi ngất xỉu.

Mẹ kể: Xe Quân Cảnh đến, xe cấp cứu đến...phải bắn vào Ki Ki mấy mũi thuốc mê mới trói được Ki Ki đưa lên xe vì nó cứ quanh quẩn bên tôi mà thét gào làm ai cũng sợ !

Trên giường cấp cứu, mấy chú quân cảnh Việt Mỹ phối hợp hỏi tôi:

- Ki Ki bỏ ăn 2 ngày ?

Tôi gật:

- Dạ

- Ki Ki có tâm trạng buồn bã mấy hôm ?

Tôi gật:

- Dạ

- Ki Ki có triệu chứng sợ ánh sáng và nước ?

Tôi lắc:

- Dạ không.Em với Ki Ki mới đi tắm biển sáng qua. Mấy chú đem Ki Ki của em đi đâu vậy ?

- Chỉ để kiểm tra xem Ki Ki có bị dại không đó mà. Nhưng ba em đã đưa giấy chích ngừa của KI Ki rồi! Em yên tâm đi.


- Họ sẽ giữ Ki Ki của em bao lâu ?

- Độ 1 tuần thôi

- Còn chú David ?

- Dữ không, bây giờ cô chủ nhỏ mới hỏi tới nạn nhân. thật sự David không sao cả, ông ấy đạn bắn cũng chỉ sợt qua da, con Ác Thú của em mà ăn thua gì! Ông ấy đang chờ vào thăm em đó.

David vuốt má tôi:

- How are you, Baby ?

Tôi nhìn vết băng trên tay David, gây gỗ:

- Chỉ có một vết trầy nhỏ xíu mà mọi người nỡ bắt Ki Ki !

- Tại tôi gồng nên Ki Ki cắn trượt chứ người khác thì tiêu cánh tay với con Ác Thú của em rồi !

Tôi giận David từ đó, nhất định không ra sân chơi vũ cầu dù mỗi chiều vẫn ôm cổ Ki Ki ngồi trên bậc thềm cao nhất, ngắm nắng rơi dần về cuối chân trời.

Tôi và Thư đã có một thú vui mới từ khi hai đứa được ba mua cho một chiếc xe đạp nhỏ, hai đứa long nhong đạp xe từ nhà ra biển, ghé đường Nguyễn Hoàng mua bắp nướng, những trái bắp mềm ngọt thơm tho của ấu thời thơ dại còn nhớ đến suốt đời... ( Để sau này, tôi yêu một người không đáng để yêu, chỉ vì mỗi đêm bạn ấy lặn lội gió mưa mang đến cho tôi những trái bắp còn nóng hỗi, thơm mùi mỡ hành ngào ngạt...)

Sau chiến tranh, David trở về chiến trường xưa, ngơ ngác tìm lại ngôi biệt thự xinh xắn ngày nào nằm yên tĩnh giữa một vườn Trúc Đào bốn mùa nở hoa hồng thắm... Nhưng hồi ức đã phản bội David, Ông không bao giờ còn nhận ra chốn cũ, khu vườn yên tĩnh với 2 cô bé con thấp thoáng chiều nào cũng tranh tài cao thấp... Không bao giờ còn thấy con Ác Thú gãy 2 cái răng cửa vì bênh vực cô chủ đã cắn ông ngày ấy !Ông chỉ còn thấy ngôi biệt thự khuất lấp, lọt thỏm giữa bao nhiêu nhà cửa lô nhô, chỉ còn một dấu ấn nhạt nhòa là một cây phượng đỏ, và dưới bóng mát của nó là những dãy bàn quán nhậu !!!

Một vài thông tin mơ hồ cho biết gia đình này đã đi xa rồi...

Một vài lần David cố trở về để tìm lại những ký ức buồn vui, Tuổi trẻ của David cũng đã trôi qua nhiều năm ở đây, cái thời bồng bột và cô đơn xa vắng nhất, David đã tìm thấy ở 2 cô hàng xóm bé nhỏ hình ảnh cô em gái yêu quý ở quê nhà.

Một vài lần David bâng khuâng tự hỏi: chiến tranh và cả hoà bình nữa đã xô đẩy những người thân quen cũ của David về đâu? Câu hỏi của David đã được trả lời: Họ đã về đây sau bao nhiêu ác mộng...miền Nam California ngập tràn nắng ấm như Nha Trang ngày ấy !

Như một thói quen cuối tuần, David dò tìm bất cứ một đài TV Việt Nam nào có thể để lim dim nghe những âm điệu quen thuộc ríu rít ngày xưa... Để đến một ngày David nhìn thấy trên màn hình một cô MC Việt Nam bé nhỏ đang tường thuật lại Lễ Hội Diều trên bãi biển SEAL BEACH, CA... Cô nhỏ này giống đến 90% cô nhỏ có con Ác Thú năm xưa! Bàng hoàng, David không tin vào mắt mình, nhưng ông đã dần dà tìm ra manh mối.

Vẫn khu vườn xanh mượt cỏ nhưng bé nhỏ và không đẹp bằng khu vườn thuở xưa, vẫn thấp thoáng những hàng Tử Vi Hồng thay thế hàng Trúc Đào ngày ấy, vẫn những tiếng cười trong veo rộn rã, vẫn một quả cầu lượn qua lượn lại mỗi chiều... David lại được đắm chìm vào hồi ức cũ với những tình cảm ấm áp mà cô nhỏ ngày xưa và cả gia đình cô giành cho người cựu chiến binh cô độc...

Đôi khi ông quên rằng đây là Cali, cách xa NhaTrang đến nửa vòng quả đất, đôi khi ông quên rằng cả nửa đời người đã qua, như một chớp mắt... Đôi khi ông quên ông chỉ là một cố nhân...nhưng cô nhỏ ấy đã ôm ông khi thấy ông tuyệt vọng: David, chúng tôi là gia đình của ông mà...Đôi khi, ông quên, đã buột miệng gọi cô: Baby... để thoáng thấy cô cười thật tươi mà nước mắt rưng rưng !!!

Mỗi năm, David lại về thăm chúng tôi...Và đôi khi, trong lưng chừng câu chuyện, tôi lại đau buồn thấy chiến tranh đã cướp đi tinh thần và sức khỏe của David quá nhiều... Còn mãi đó những hồi ức âm thầm buồn bã, Dáng David cao lớn khỏe manh đẹp như tài tử ci né... Dáng Ki Ki mềm mại uyển chuyển luôn cận kề bên cạnh, sẵn sàng che chở và bênh vực tôi bất kể tôi đúng hay sai... Và David cũng vậy, David luôn muốn bênh vực và tự hào vì cô bạn bé nhỏ ngày nào xa xưa... David đã vỗ tay to hơn cả những người ruột thịt của cô, khi cô dõng dạc tuyên bố lúc nhận giải Công Dân Danh Dự của thành phố núi xinh đẹp mà cô đến định cư.

"Tôi chưa phải là một công dân gương mẫu lắm của thành phố, nhưng tôi luôn tự hào về những việc mình đã làm đều tốt nhất so với các điều kiện và khả năng tôi đã có đối với tổ quốc này. Vậy thì nước Mỹ còn đòi hỏi gì hơn ở tôi và những người di dân khác ?"

Tôi thấy David rất muốn quẹt ngón tay lên má tôi để lau hai hàng nước mắt đang lăn xuống, nhưng có người đã làm việc đó nên David chỉ lấy tay để chặn những giọt nước mắt đang định rơi trên mắt ông.

Tôi lại tự hỏi: Tôi đâu có làm được gì để mọi người yêu thương tôi đến vậy!

Và tôi cũng tự trả lời: Tôi suốt đời chỉ muốn được nắm chặt những bàn tay lạnh lẽo, yếu đuối, cô độc...

Và David, chiến tranh của chúng tôi đã đem đến cho ông nhiều bất hạnh, những huân chương, huy chương của ông xếp đầy trên bàn viết của tôi: khi tôi chết, cô hãy giữ làm kỷ niệm...

Tôi không nói được lời nào trước niềm cô đơn khủng khiếp đó ngoài một nỗi buồn ray rứt không nguôi

David, hãy nhớ rằng chúng tôi là gia đình của ông.

Tôn Nữ Thu Dung

Ý kiến bạn đọc
08/01/201516:56:08
Khách
Wow! Great story. Đọc đi đọc lại không chán . Chuyện hay lắm
04/01/201507:21:42
Khách
Cảm ơn các bạn đã đọc bài viết nhỏ này.
04/01/201504:23:04
Khách
Bài viết thật cảm động. Cầu nối ký ức cũ đã đưa hai con người đến gần nhau hơn giữa một thế giới khác bên ký ức từng ngày nhạt nhòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,282,315
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến