Hôm nay,  

Lá Thư Tình Đầu

13/02/201500:00:00(Xem: 15098)
Người viết: Vĩnh Chánh
Bài số 4460-16-29860vb6021315

Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại.  Với bài bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè”  ông viết Tháng Tư 2013, Vĩnh Chánh đã nhận giải danh dự Viết về nước Mỹ cùng năm. Tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sàigon ngày 30 tháng Tư.

Hình: V6 vvnm foto_thu tinh.jpg
Mấy dòng bản sao “Lá Thư Tình Đầu Tiên” 47 năm trước  vừa tìm thấy.

***

V6 vvnm foto_thu tinhMấy ngày vừa qua, các diễn đàn trên mạng chuyễn một lá thư tỏ tình viết bằng tiếng Pháp được phiên dịch ra tiếng Việt, trúng giải nhất trong mùa lể Saint Valentin tại Pháp Quốc. Hôm nay, nhân lễ Valentine, xin mạn phép chia xẻ cùng quý vị một lá thư xưa chúng tôi mới lục tìm được từ đống kỷ niệm của quá khứ. Tìm được lá thư thấy như tìm lại một kho tàng tưởng đã mất. Đó là lá thư đầu tiên tôi viết cho người tôi si mê, ngày 19 tháng 4, 1968, đánh dấu bước đầu của cuộc chinh phục khó khăn đầy trắc trở. Tôi, sinh viên YK năm thứ Nhất, đầy đam mê, ngông cuồng của tuổi thanh niên; người ấy, mới học nửa năm lớp Đệ Ngũ trường Đồng Khánh.

Hè 1967, một cô bé nhỏ nhắn xuất hiện tại nhà tôi khiến tim tôi ngạc nhiên đập lỗi nhịp. Nàng đem bánh của Mẹ làm đến biếu “Bà Vú”, tiếng nàng gọi Măng của tôi vì Măng tôi là Vú Đở Đầu cho Mẹ nàng khi Ba Mẹ nàng làm đám cưới. Đấy chính là cô bé mặc áo đầm vàng đã thu hút cái nhìn của tôi khi đang đi dạo cùng với Mẹ và các em tại công viên trước trường Đồng Khánh, mới mấy ngày trước. Đây cũng là nhân vật trong bức ảnh gia đình, một món quà tặng của Mẹ nàng, Măng tôi vẫn treo trên tường, gần bàn học của tôi. Mỗi khi nhìn đến, tôi vẫn liên tưởng rằng ngày sau tôi sẽ có được nàng, như một ám ảnh, một ước mơ thầm kín.

Trong thảm họa Mậu Thân 68, khi biết gia đình nàng được an toàn, đang lánh nạn tại Dòng Chúa Cứu Thế, tôi tức tốc tìm thăm dù đường đi còn dấu vết tàn phá và chết chóc. Xác xe, xác người rải rác bên vệ đường; cành cây nghiêng ngã văng đầy khắp nơi do bom đạn, hiện trường như một cảnh phim… để chỉ kịp thấy nàng vài ba phút, trao một ít đồ hộp, rồi nàng vội vã quay vào với gia đình. Hình ảnh xanh gầy của nàng với đầu tóc ngắn thân thuộc trong một buổi sáng có gió lạnh và mây xám trên trời mãi mãi ám ảnh tôi từ dạo đó.

Bận rộn làm việc liên tục tại Bệnh Viện Huế cùng với đàn anh Nguyễn Văn Chử, khóa 4, Bảo Chủ, khóa 4, Trần Tiển Ngạc, khóa 7, phụ giúp cho BS Thomas Herod giải phẫu trong thời điểm gay cấn, nóng sốt nhất, tôi không có cơ hội đến thăm nàng. Thời gian kề cận ngày rời Huế để vào Saigon học tiếp, tôi lấy hết can đảm viết cho nàng một lá thư không viết nháp, không soạn thảo. Không nắn nót, trau chuốt, viết luôn một mạch. Giọng thư làm ra vẻ ngang tàng, hài hước. nhưng rất chân thật, không có giọng chìu lụy, van xin tình cảm.

Dĩ nhiên thư tôi không được hồi âm.

Nàng theo gia đình dời đi Nha Trang, rồi lên học Đà Lạt, rồi dọn về Saigon. Nàng vẫn là “gái trong song cửa”, tôi đóng bộ “chiến binh”. Mối tình trong tôi vẫn đeo đẳng không thôi.

*

Và sau đây làbản đánh máy Lá Thư Đầu tiên, không sửa lỗi chính tả:

19-4-1968

Mến gởi cô bạn của anh Vĩnh Chánh,
Chắc cô ngạc nhiên khi nhận được mấy giòng chử lạ lùng này. Nhưng xin cô hãy bình tỉnh đọc. Theo tôi biết hình như cô đã quen với anh V.C không được lâu đâu và chắc cô cũng đã được nghe nói đến “lảo tình địch nguy hiểm” của anh ta. Tôi xin tự giới thiệu là nhân vật ấy, ẩn núp trong bóng tối từ mấy năm vừa qua và chẳng có việc gì giữa cô và anh ta mà tôi không biết (?). Hôm nay tôi đánh bạo viết lá thư này mong cô thông cảm dùm tôi, một tâm hồn đã si mê cô nhưng không gặp may mắn như anh V.C. Tôi hiểu cô yêu thương anh ấy lắm nhưng luôn tiện cô cho phép tôi nói xấu anh ta một chút nhé.

Tôi tuy quân tử nhưng trong việc ái tình người ta có thể xử dụng bất cứ một khí giới nào. Anh V.C chắc cô đã biết rỏ là một người khó tính, hay khinh người (?), ăn nói tuy có duyên, nhưng hay luẫn quẩn lắm; anh ta rất cộc cằn, thô lổ, dữ tợn, ăn nói nghênh ngang và là một con người tự đắc, tự phụ lắm, kêu (kiêu) căng lắm. Anh ấy hữu tài hữu tướng thật, nhưng thời buổi loạn ly này hạng người như thế chỉ vô dụng. Theo tôi nghĩ, cô nên nhìn rỏ tình thế mà cuốn gói theo tôi gấp vào Saigon. Trong này tôi sẽ ngâm thơ cho cô nghe (vì tôi có một tâm hồn thi sĩ!!??), sẽ dẫn cô đi xi nê cọp vì tôi, thú thật với cô, tôi nghèo lắm, và tôi sẽ dẫn cô đi lang thang từ tỉnh thành này đến làng mạc kia, dọc ngang trái đất loài người này. Vì cũng như cô, tôi là người bơ vơ, cô đơn. Tôi sẽ đem cô đi mãi cho đến thế giới thần tiên, tôi yêu thương cô nhiều và chỉ muốn trên trái đất này chỉ có đôi ta thôi. Chắc là cô nghĩ tôi còn lẫn quẫn và “tự phụ” hơn gấp mấy lần anh V.C giả dối đạo mạo đáng ghét kia, lúc nào cũng muốn lên giọng dạy đời. Nhưng cô cũng biết trên đời này cái gì cũng khi lên khi xuống, khi thăng khi trầm.

Thôi nói nhiều làm gì, chỉ khêu thêm lòng mong nhớ của tôi, muôn đời muôn kiếp sẽ không bao giờ nguôi.

Ký tên: Kẻ tình địch của thằng V. C
TB. Xin cô đừng cho anh V.C biết vụ này vì nếu anh ta biết,(anh) ta sẽ nổi cơn ghen thì tôi chẳng biết chạy trốn ở phương nào bây giờ.

*

Ngày 19 tháng 4, 1975, bảy năm sau ngày tôi viết Lá Thư Đầu Tiên cho nàng, tôi được nàng đến thăm ngay tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy dù khi tiểu đoàn đóng quân tại xưởng dệt Công Thành ở Hóc Môn. Bối cảnh chao đảo của cuộc chiến đã lay động nàng. Tấm lòng của tôi được ngó đến, tình yêu của tôi được vun xới ngày thêm sâu đậm. Mà đoạn kết là một “đám cưới chạy tang”, 3 ngày sau khi mất nước.
Cất giữ được lá thư của tôi sau 47 năm là một điều kỳ lạ, kỳ lạ như những dòng chữ tôi đã viết với rất nhiều lỗi chính tả, lỗi kiểu cách ngông nghênh vụng về thời tuổi trẻ bồng bột.

Em yêu,
Qua bao nhiêu thử thách, trên chiến trận, trong tù đày. Qua bao nhiêu sóng gió, giông bão của cuộc đời, tình yêu của chúng ta đã vượt lên trên hết. Vững mạnh. Đằm thắm. Tăng trưởng trong tin yêu và tha thứ. Thời gian như tên bay, nhìn về phía trước, con đường chúng mình cùng sánh bước sẽ diệu kỳ, như định mạng đã mầu nghiệm sắp đặt.

Cầu chúc em sống đẹp, vui mạnh, an lành bên anh mãi mãi.

Ngày 9 tháng 2, 2015
Bên bờ hồ Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,415,463
Trước 1975, tác giả là một nhà thơ quân đội, sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông đã tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên và hai lần nhân giải, 2001 và 2012. Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả là một nhà báo quen biết tại Dallas, từng trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí. Ông từng nhận giải Danh dự Viết Về Nước Mỹ và vẫn tiếp tục góp thêm nhiều bài viết giá trị. Sau đây là bài mới của ông.
Tác giả tên thật Tô vĩnh Phúc, cư dân Sacramento, California, từng có văn thơ đăng trên báo chí vùng bắc Cali và các trang web. Tác phẩm mới nhất được xuất bản là thi tập "Bên Bến Sông Buồn"(2011). Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011, với bài “Chuông Gọi Mẹ Thương.” Sau đây là bài mới của ông.
Tác giả tên thật Nhữ Đình Toán, cư dân Santa Ana, cựu sĩ quan CSQG/VNCH (Khóa 1 BTV-Học Viện CSQG), tù cải tạo gần 7 năm, định cư tại Hoa Kỳ từ 1991 theo diện HO-5. Hiện làm việc cho một hãng sản xuất phụ tùng máy bay Mỹ ở Fullerton (CA), có bài đăng trên một số báo tại quận Cam. Ông dự viết về nước Mỹ từ 2005 với tuỳ bút “Để Nhớ Về Saigon.” Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả họ Vũ, cư dân Bắc California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn.Tiếp theo, “Trường Đời: Học Làm Chồng” và “Số Đào Hoa” cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả.Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Bài mới của tác giả kể về một cô giáo cũ.
Thanh Mai đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết về nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến. Thanh Mai cho biết cô qua Mỹ từ năm 1993, hiện là Electronic Technician của Honeywell Minnesota. Bài mới nhất của cô là một truyện ngắn về đời sống Mỹ, với đủ loại bảo hiểm và chuyện “đầu tư” cho con cái.
Tác giả sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Đến Mỹ tháng 4 năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, đang làm việc trong phân xưởng in của một nhà máy tại địa phương. Sau đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ tư của cô.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả từng nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston. Công việc từng làm: thông dịch cho Welfare, social worker, phụ giáo, tutor toán ở Middle School của Boston Public Schools. Bài mới nhất của ông là một du ký vui về chuyến đi Âu châu.
Tác giả là một Linh mục dòng truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh dòng Chicago, đang ở Alice Springs, Northern Territory, lo cho thổ dân vùng sa mạc đất đỏ Úc Châu. Với nhiều bài viết giá trị, ông là tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười, 2010. Bài viết mới nhất của nhà văn linh mục là một truyện ngắn, được tác giả giới thiệu như sau:
Nhạc sĩ Cung Tiến