Hôm nay,  

Từ Chùa Cầu Hội An tới Đất Mỹ

8/4/201500:00:00(View: 13081)

Tác giả: Hương Thùy
Bài số 3590-17-30180vb3080415

Tác giả lần đầu tham gia Viết Về Nước Mỹ, bài được chuyển qua eMail.. Bài đầu tiên của Hương Thùy là ký ức về phố cổ Hội An và một thoáng tình học trò thời chiến, 40 năm sau mới có dịp gặp lại trên đất Mỹ. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết và bổ búc phần sơ lược tiểu sử và địa chỉ liên lạc.

* * *

Ai đi có nhớ chùa cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai muốn sầu

Chùa Cầu là biểu tượng của Hội An quê tôi, một thành phố nhỏ cổ kính nằm ven sông Thu Bồn, dạo sau này thường được du khách biết đến. Cây chùa cầu có mái che nổi tiếng này mỗi đầu cầu đặt 2 tượng, đầu bên này tượng 2 con khỉ, đầu bên kia tượng 2 con chó ngồi chễm chệ.

Hội An ngày xưa cộng đồng người Việt, người Hoa, người Nhật có chung một quan niệm về nguyên nhân gây ra động đất. Họ cho rằng ngoài bể khơi có một loài thủy quái người Việt gọi là con Cù, người Nhật gọi con Mamazu, người Hoa gọi là Câu long. Đầu của nó ở Nhật bản, đuôi ở tận Ấn Độ và lưng nó vắt qua khe ở Hội An mà chùa cầu bắc qua. Mỗi khi con thủy quái đó quẫy mình làm cho Nhật Bản động đất, Hội An cũng ảnh hưởng không được yên ổn để cho người Nhật, người Việt, người Hoa buôn bán.

Để khống chế con quái đó, người Nhật đã thờ các Thần Khỉ và Thần Chó trên hai đầu cầu để "yểm"

Hồi nhỏ mỗi lần phải đi ngang chùa cầu tôi rất sợ, chân bước thật mau, tay nắm chặt tay mẹ mắt không dám nhìn thẳng mà chỉ dám he hé nhìn đôi mắt to tròn dữ tợn của mấy con khỉ, con chó đặt ở đầu cầu

Quê tôi cách Hội an một buổi đi đò, vốn nổi tiếng về nghề ươm tơ dệt lụa. Mấy năm sau khi bị Việt Minh cướp chính quyền, làng Hà Mật trở thành vùng xôi đậu, không còn nghe tiếng thoi đưa, trên các con đường làng chẳng còn đâu tơ vàng giăng nghẽn lối nữa. Dân làng đã dần dần bỏ đi tìm đến vùng đất tự do. Gia đình tôi cũng theo chân đoàn người tản cư xuôi đò về phố Hội. Không chen chân vào được khu nội ô, đành dựng tạm mái nhà trên một vùng đất trũng ven thành phố, cạnh khu gia binh một đồn biệt kích.

Mẹ tôi nhận nấu cơm tháng cho các nhân viên công chức xa nhà. Sau mỗi ngày làm lụng cực nhọc, ba mẹ tôi lại hì hụi đi gánh đất về đổ trên đám đất cạnh hè nhà, phòng hờ cho mùa lũ lụt.

Một đời vất vả, niềm ước mơ của những con người lam lũ suốt đời trong lũy tre làng như ba mẹ tôi là mong sao cho mấy chị em chúng tôi được no đủ, ăn học nên người.

Tôi cũng có niềm mơ ước của riêng mình, những buổi chiều tắt nắng tôi đứng bên hiên nhà nhìn các chị nữ sinh tóc dài xõa ngang lưng, áo dài trắng thướt tha nói cười ríu rít, tôi mơ một ngày được khoác lên người bộ đồng phục trắng tinh khôi để khẳng định mình đã trở thành một người lớn.

Con đường duy nhất để tôi "khẳng định" là làm sao phải lọt vào con số 300 trên tổng số hơn một ngàn rưỡi những đứa nhóc cũng đang lăm le chiếm một chỗ vào đệ thất như tôi.

Thời chiến tranh, thiên hạ lũ lượt bồng con dắt cháu xuống Hội An tránh cảnh bom rơi đạn lạc, con đường vào Đệ thất Trần Quý Cáp của tôi ngày càng trở thành khung cửa hẹp

Tôi ra sức tụng nhuyễn như cháo bộ Sử ký Địa lý, học thuộc lòng quyển những bài luận mẫu, cặm cụi giải gần hết mấy trăm bài tính mẫu.

Mỗi buổi sáng mẹ tôi thường kêu chị bán bánh bèo vào để cả nhà ăn điểm tâm. Những chén bánh bèo để vừa trong lòng tay người lớn, úp chồng hai ba lớp quanh cái trẹt bằng tre. Đầu gióng bên tê là nồi nhưn tôm, trên mặt rắc một lớp tiêu hành thơm phức. Chỉ riêng mình tôi trong những ngày ôn thi vất vả này, được mẹ tôi "đặc cách" cho hưởng biệt lệ: thay món bánh bèo bằng một tô bún bò là món quà sáng cao cấp tôi ít khi được hưởng.


Gánh bún dịu dàng õng ẹo theo bước chân cô bán bún. Nồi bún nóng đặt trên một bếp lò hừng hực lửa, khói và hơi thơm bay nghi ngút khi cô mở vung, tay cầm cái vá cô đi một vòng lượn trong nồi nhưn, dịu dàng uyển chuyển không kém gì các vũ công Chămpa, bắt dính ngay miếng giò mẹ tôi yêu cầu. Tôi ăn tô bún thật chậm thật khoan thai vì sợ...mau hết

Sẽ không bao giờ tôi quên những giọt nước mắt của mẹ, khi tôi hổn hển chạy về báo tin "Con đậu rồi mẹ ơi".

Sau đó là những ngày mua sắm bận rộn chuẩn bị cho năm đầu tiên bước chân vào trường Trung học. Tôi kê bàn học ngay khung cửa sổ đầy ánh sáng, sắp xếp sách vở gọn gàng, không quên trang trí một bình hoa cắt ngoài vườn mỗi sáng. Đôi guốc DAKAO gót cao gần 5 phân với quai nhung đen tuyền làm tôi thấy đôi bàn chân mình... đẹp lạ lùng.

Khối Đệ thất năm nay có 7 lớp, tôi chọn sinh ngữ chính Pháp văn nên vào Thất 3. Bạn bè hồi Tiểu học đứa thi rớt, đứa ở khối Anh văn, nhìn quanh chẳng thấy mống nào quen, nhưng chưa qua hết kỳ tam cá nguyệt bọn tôi đã kịp chứng tỏ bản lãnh nhất quỷ nhì ma rồi.

Lớp tôi có cô Ấn dạy Sử, thầy Đỗ Kiệm dạy vẽ, cô Nguyên dạy Hán văn. Thế rồi rình khi nào các thầy cô đi trong sân trường cả bọn đồng thanh hô ầm lên:

- Cô Ấn sử thầy Kiệm vẽ Hán cô Nguyên tụi bay ơi...

Bốn năm trung học đệ nhất cấp trôi nhanh như một giấc mộng. Rồi một buổi trưa nào như buổi trưa trong ca dao, có cu gáy có bướm vàng nữa chứ...trên đường đi học về sực nhớ ra mình chưa cài vạt áo dài vào ba ga xe đạp, vội vàng đứng lại nhưng đã trễ. Ôi thôi rồi! Sợi dây sên đã tàn nhẫn quấn vạt áo dài không thương tiếc.

Anh xuất hiện đúng lúc như một nhân vật anh hùng chuyên cứu khổn phò nguy, mặc dù vạt áo dài te tua không phương cứu vãn tôi vẫn trân trọng cám ơn.

Sau lần đó không hiểu vô tình hay cố ý mà anh và tôi có dịp chung đường hoài. Chúng tôi học chung trường, có khác chăng chỉ là anh thi tú tài trước tôi 3 năm thôi

Tôi lên đệ tam, chúng tôi không còn cơ hội gặp nhau nữa vì anh đã xếp áo thư sinh vào quân trường Thủ Đức.

Kỷ niệm khi chia tay dịu dàng nhưng nhức buốt vì hai đứa đều hiểu rằng đời lính chiến gian khổ rày đây mai đó, đâu dễ gì vượt đường xa sông núi về chốn xưa.

Anh gửi thư về, lời thư tha thiết làm tôi muốn khóc:

"Hồn đơn lẻ như đảo rời dặm biển.
Suốt một đời như núi đứng riêng tây"

Tôi đậu tú tài rồi đi dạy học, hoàn thành tâm nguyện của ba mẹ.

Rồi một ngày đổi đời khi dép râu nón cối xuất hiện gieo bao ly tan khổ đau trên đất nước, tôi nghe tin anh đã bị tập trung đi cải tạo.

Chúng tôi xa nhau từ đấy nhưng lòng vẫn mang theo những câu thơ ngày nào ghi trong nhật ký:

Ai nào thấu hết tình ai
Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm.

Bốn mươi năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Trong một lần qua thăm xứ Mỹ chúng tôi tình cờ gặp lại nhau. Khi ấy đôi mái đầu đã bạc. Người xưa -- như bài thơ Tình Già của Phan Khôi từng kể-- chỉ cách xa nhau hai mươi bốn năm, mà “nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được”, nhưng chúng tôi đã nhận ra nhau dù gần 40 năm bụi thời gian đã làm mờ phai kỷ niệm.

Tìm đến một quán ăn mang hương vị quê hương, anh nói:

- Bữa ăn hôm nay có thể khác những bữa ăn ở quê nhà, nhưng nỗi nhớ quê thì vẫn nguyên vẹn trong tâm thức những người xa xứ.

Giọng anh thay đổi nhiều sau những tháng năm dài luân lạc với đầy âm sắc u buồn của người mang mối hờn vong quốc.

Chúng tôi chia tay mà lòng còn biết bao điều muốn nói. Nhưng biết nói gì đây "Khi hai đường đời ngăn chia mình rồi" phải không anh?

Hương Thùy

Reader's Comment
8/13/201501:19:24
Guest
Bài viết dể thương quá.Cám ơn tác giả.
Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 856,937,429
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2004. Võ Phú là tên thật. Sinh năm 1978; sinh quán Nha Trang-Việt Nam; định cư, tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth University. Hiện đang làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả trở lại với Viết về nước Mỹ từ 2016, với sức viết mạnh mẽ và thứ tự hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Sau đây, thêm mợt bài viết mới cho mùa Giáng Sinh đang tới.
Tác giả đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước và mới nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2018. Bài đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà tới hơn 400 người tử vong- Hiện ông đang là cư dân Orlando, Florida, vùng đất rất quen với bão lụt. Loạt bài mới của ông là chuyện khởi nghiệp trên đất Mỹ. Lần trước, là cửa hàng bi da. Bài mới, làm Shop May Công Nghiệp, thêm phần mở trung tâm giải trí.
Ngày Thứ Hai 5 tháng 12, 2018 là Ngày Quốc Tang của nước Mỹ để tưởng nhớ vị Tổng Thống thứ 41 George H W Bush. Bài sau đây được viết trong tinh thần tưởng nhớ. Người viết, Bà Nguyễn Kim Nên hiện là Hội Trưởng Hội Cựu Giáo Sư và Học Sinh Trường Trịnh Hoài Đức - Bình Dương, đang làm việc trong ngành thẩm mỹ tại Houston, Texas. Đây là bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của tác giả, kể về người bạn đời của bà là Ông Nguyễn Duy Huynh, một tị nạn Việt, làm việc tại Houston Club và trở thành người đấm bóp tin cậy của Tổng Thống Bush và gia đình ông.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và vừa chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới của Phan, viết cho mùa Giáng Sinh đang tới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20. Bà tên thật Trần Ngọc Ánh sinh 1955, sau khi đi tù gần 11 năm về tội chống Cộng Sản từ đầu 1979 đến cuối 1989, đã tốt nghiệp Đại học năm 1995 ngành Quản trị kinh doanh tại VN. Sang Mỹ định cư theo diện kết hôn năm 2007, hiện đang sống tại thành phố Victorville, miền Nam California. Nghề nghiệp nội trợ. Sau đây, thêm một bài viết mới của bà.
Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên với nhiều bút hiệu: Capvanto, Philato... Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1941, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Á Khôi, Vinh Danh Tấc giả VVNM 2014. Bài mới ông góp không phải để dự giải mà chỉ để ghi lại một sinh hoạt đặc biệt của buổi họp mặt kỷ niệm 90 năm ngôi trường được mang danh Petrus Ký.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Bài viết mới nhất kể về một chuyện tình đẹp.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước My năm 2018. Thời chiến trước 1975, ông xuất thân Khóa 9 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, sau đó dự Khóa Căn Bản TQLC ở Quantico, Virginia năm 1963, nhiều lần bị thương và thăng chức ngay tại mặt trận. Sau gần 10 năm tù hậu chiến, ông vượt biển từ Rạch Giá đến Thái Lan trong tháng Giêng/1987. Đến Mỹ tháng 8/1987 và định cư tại Utah, làm việc cho First Security Bank, Accounting Depart-ment. Đã từng giữ chức vụ Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Utah trongnhiều nhiệm kỳ. Hiện đã về hưu. Bài viết của ông là hồi ký về một bạn thân người Mỹ tử trận tại Việt Nam.
Với bài viết đầu tiên từ tháng Sáu 2017, tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, cô cho biết đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi và xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến