Hôm nay,  

Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong

28/05/201600:00:00(Xem: 17743)
Tác giả: Sáu Steve Brown
Bài số 3829-17-30329-vb7052816

Ngày Thứ Hai 30 tháng Năm sắp tới sẽ là Memorial Day 2016. Từ 1890, đây là Ngày Tưởng Niệm hàng năm của Hoa Kỳ hướng về các chiến sĩ trận vong. Xin mời đọc bài của Sáu Steve Brown viết trực tiếp bằng Việt ngữ. Ông Sáu Steve Brown, một cựu chiến binh Mỹ từng đóng quân ở Biên Hoà năm 1973 và kết hôn với một phụ nữ Việt. Viết về nước Mỹ, ngày 18 -12-2012 đã phổ biến bài viết trực tiếp bằng tiếng Việt đầu tiên của ông, kể chuyện tình 40 năm trước giữa chàng thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ và một cô gái Việt. Ông bà nay có 7 người con, hiện ở Ohio. Với bài viết thứ ba, “Hành Trình Tiếng Việt của Một Người Mỹ”, năm 2013, ông nhận Giải Việt Bút Trùng Quang, một giải viết văn hàng năm dành cho tác giả tác phẩm nào thể hiện được sức mạnh của tiếng Việt khi Viết Về Nước Mỹ.

* * *

blank
Tranh Claude Monet: Wild Poppies (hoa anh túc hoang).

Lúc tôi còn nhỏ, tức là khi học lớp một đến lớp tám, ngôi trường trong làng nhỏ Orwell tiểu bang Vermont mỗi năm có tổ chức đặc biệt Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong. Đó là một buổi nhóm họp của cộng đồng. Có quốc ca và những bài hát aí quốc, và có những người lên nhắc về những người lính đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh của nước Mỹ. Nhưng điều mà tôi nhớ rõ ràng nhất là mỗi năm đều có một học trò lên ngâm bài thơ In Flanders Fields.

Bài thơ đó do một sĩ quan Canada sáng tác trong Thế Chiến Thứ Nhất. Flanders là một vùng của nuớc Bỉ, nơi có ba chiến trường Ypres đẫm máu. Trung tá John McCrae có người bạn tử trận rồi bị chôn ngay tại chiến trường. Trong niềm xúc động, ông làm bài thơ để nhớ sự thảm bại trong những ngày đó. Đây là một bài thơ rất hay và cảm động.

In Flanders Fields

In Flanders fields the poppies blow
Between the crosses, row on row,
That mark our place; and in the sky
The larks, still bravely singing, fly

Scarce heard amid the guns below.
We are the Dead. Short days ago
We lived, felt dawn, saw sunset glow,
Loved and were loved, and now we lie
In Flanders fields.

Take up our quarrel with the foe
To you from failing hands we throw
The torch; be yours to hold it high.
If ye break faith with us who die
We shall not sleep, though poppies grow

Trong Cánh Đồng Flanders

Trên cánh đồng Flanders, hoa anh túc
Bay lên giữa thập giá, hàng tiếp hàng
Ghi dấu nơi chúng tôi nằm; và giữa trời mây
Những chú chim, vẫn can đảm hát, bay

Dưới này tiếng súng át mọi âm thanh
Chúng tôi là Người Chết. Mới vài ngày nay
Chúng tôi đã sống, tắm bình minh, ngắm tà dương
Đã yêu, được yêu, và bây giờ nằm trơ
Trong cánh đồng Flanders

Hãy tiếp nhé, cuộc chiến với quân thù
Trao cho bạn trước khi tôi xuôi tay
Ngọn đuốc đó mong bạn giương cao mãi
Chớ phụ lòng người ngã xuống nơi đây
Kẻo chúng tôi không thể yên nghỉ, dù anh túc vẫn nở
Trên cánh đồng Flanders

Nhiều năm sau tôi thấy một bức tranh tên là Wild Poppies (Hoa Anh Túc Hoang) của danh họa người Pháp Claude Monet. Ông Monet vẽ tranh đó ở miền bắc nước Pháp, khá gần các chiến trường ở Bỉ, tức là cánh đồng Flanders. Lần đầu thấy bức tranh đó tôi nhớ đến bài thơ mà tôi đã nghe nhiều lần lúc tuổi thanh xuân. Khi nhìn bức tranh đó tôi đã tưởng tượng được màu hoa anh túc tại đồng ruộng Flanders thời Thế Chiến Thứ Nhất là như thế nào. Vì cảm xúc đó, tôi đã họa lại bức tranh đó cách đây rất lâu.


*

Một ngày kia trong năm 2002 tôi đọc được trong trang mạng của Hội Cựu Thủy Quân Lục Chiến mục Liên Lạc Với Nhau. Có một phụ nữ muốn tìm những người biết về cái chết của chồng bà ấy ngày 12, tháng 6, năm 1972 tại Việt Nam. Chồng bà ta là Trung Úy Samuel Powell.

Tôi nhận ra cái tên đó ngay. Tôi gởi điện thư cho bà Powell nói rằng tôi biết về cái chêt của Trung Úy Powell vì anh ấy phục vụ trong đơn vị tôi lúc đó. Tôi cũng nói là nếu bà muốn chi tiết thì xin cứ hồi âm cho tôi. Ngay hôm sau tôi nhận hồi âm. Bà Powell nói sau khi chồng bà ta chết thì Trụ Sở Thủy Quân Lục Chiến Mỹ báo tin nhưng không giải thích anh ấy bị chết như thế nào. Bà ấy liên lạc lại với họ nhưng không có ai có thể giải thích cho rõ ràng. Ba mươi năm đã trôi qua mà bà ấy vẫn chưa biết được. Thật là tội nghiệp! Tôi nghĩ mỗi năm đến ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong có lẽ bà Powell lại nhớ đến chồng mình và lại thắc mắc về cái chết của ông.

Đơn vị thủy quân lục chiến của tôi từ Nhật Bản đến Việt Nam trong mùa xuân năm 1972. Vài tuần sau một người bạn cho tôi biết một máy bay A-37 đi công tác mới về căn cứ, đem theo xác của một sĩ quan trong đơn vị chúng tôi.

Loại máy bay A-37 của Không Quân Mỹ có hai cái ghế kế bên nhau. Có người giải thích cho chúng tôi là thường thường khi đi công tác loại máy bay đó chỉ có phi công lái và cái ghế bên phải bỏ trống. Nhưng sĩ quan chỉ huy đơn vị tôi yêu cầu đơn vị 8th SOS (SOS có nghĩa là phi đội chiến dịch đặc biệt) của Không Quân Mỹ cho các sĩ quan thủy quân lục chiến đi theo để học hỏi kinh nghiệm.

Nghe tin chúng tôi vội đến xem tình hình. Từ xa, máy bay có vẻ không bị hư hại nhiều. Trung Úy Powell ngồi phía bên phải hôm đó. Trong lúc máy bay thả bom một viên đạn đại liên của quân địch bắn trúng máy bay, xuyên qua Trung Úy Powell rồi đi thẳng lên sau khi phá vỡ cửa kiếng ở trên. Trung Úy Powell chết tại chỗ. Tình hình như thế rất hiếm, hầu như chưa bao giờ xảy ra tại các căn cứ khác. Nếu không có mặt ở đó không thể biết rõ được. Vì thế những người tại Trụ Sở Thủy Quân Lục Chiến tận bên Mỹ không thể biết chi tiết liên quan đến cái chết của Trung Úy Powell. Do đó, khi Bà Powell liên lạc thì họ chỉ trả lời một cách rất mơ hồ. Họ không thể giải thích lý do tại sao một thủy quân lục chiến lại đi công tác trong máy bay A-37 của Không Quân Mỹ.

Tôi gởi thư điện cho Bà Powell và kể đầy đủ chi tiết. Cuối cùng, sau một (quãng thời gian dài đúng 30 năm), bà Powel đã hiểu được chồng bà ra đi như thế nào. Sau đó bà Powell gởi thư cảm ơn tôi đã cho bà ta câu trả lời mà bà ta tìm kiếm suốt 30 năm.

Chiến tranh thật là tàn nhẫn. Những người lính nằm lại trên cánh đồng hoa anh túc. Những người như Trung Úy Powell. Chúng ta có làm đủ để họ được yên nghỉ hay chưa?

Chuyện xưa qua đã lâu rồi
Vợ anh mãi hỏi sao người mất đi
Mù mờ tin tức, biết chi
Vẫn tìm kết thúc những gì chưa xong
Tiếc thương vì đã mất chồng
Lại thêm thắc mắc cho lòng thêm đau
Bây giờ mới biết tin nhau
Cám ơn số phận nối cầu tin anh.

Sáu Steven Brown

Ý kiến bạn đọc
24/07/201818:45:59
Khách
Bạn phải có một trái nhân hậu mới viết ra những điều sâu sắc như thế . Cám ơn rất nhiều , STEVE BROWN
03/06/201620:39:36
Khách
Chào trungdang, chị Phương Hoa, kimthuy, và anh Saigonmylove. Cảm ơn các bạn đọc bài viết tôi và bình luận đên.
Chúc các bạn một ngày thật vui.

Sáu
01/06/201618:02:19
Khách
Chắc nhiều người không biết chú Sáu là người Mỹ 100% mà lại giỏi tiếng Việt & viết văn hay như thế. Cám ơn chú Sáu về những hồi ức chiến tranh, tuy đau lòng & phẫn uất nhưng đó là trang sử hào hùng của dân quân miền Nam trong cuộc chiến bảo vệ TỰ DO & CÔNG LÝ.
31/05/201620:10:37
Khách
Tác giả viết tiếng Việt hay quá!
29/05/201616:41:21
Khách
Chào anh Sáu Steve,
Bài viết tuy ngắn nhưng thật cảm động. Một người vợ mất chồng nhưng nguyên nhân thì không rõ quả là một nỗi "ấm ức" đau khổ biết chừng nào! Nay nhờ thông tin của anh mà mà mgười vợ đó đã thỏa nguyện và PH nghĩ người chiến sĩ ấy cũng nhẹ nhàng mà yên nghỉ rồi. Công của anh cũng...không nhỏ!
Cám ơn anh đã cho đọc bài viết về chuyện rất thật trong chiến tranh Việt Nam. Lại còn bài thơ anh dịch và bài thơ cuối cũng đều rất hay... Tuyệt vời!
Chúc anh và gia đình luôn vạn an...
Quý mến,
Phương Hoa
28/05/201612:59:42
Khách
Khâm phuc tài viết van của ông .Nhất là bản dịch bài tho Flander's Fields, và bài tho cuối.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,684,846
Mười bẩy năm trước đây, ngày gia đình tôi vừa đến Mỹ, phóng viên nhật báo PEOPLE, có trụ sở đặt tại Muskegon City, thuộc tiểu bang Michigan đến phỏng vấn, cũng còn quá sớm, thời gian vừa chấm dứt chiến cuộc, vẫn còn có những sự kiện nóng bỏng, một số người Mỹ, nhất là nhóm phản chiến, chưa hiểu rõ người
Đã rất khuya mà Ngọc không tài nào chợp mắt được. Một phần có lẽ do hôm nay trời trở nên nóng lạ lùng làm Ngọc khó ngủ. Nhưng cái chính là Ngọc cứ mãi suy nghĩ về Ngày- của- Mẹ, ngày lễ mẹ đầu tiên trên đất Mỹ. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, sống ở Việt Nam, Ngọc đâu có hề biết hay nghe nhắc đến Ngày-của-Mẹ
Chiều thứ Bảy cuối năm Ất Dậu, ngồi chơi bên ly rượu tất niên ở nhà người bạn, vô tình cầm lên tờ báo Việt ngữ, tôi chợt bàng hoàng. Trong trang phân ưu lớn của tờ báo, người ta nói đến tên anh, thiếu tá Ngô Giáp. Chủ tịch hội ái hữu không quân Nam Cali, vừa qua đời ở tuổi 65! Đã 40 năm rồi từ ngày tôi biết anh
Ba mua cái bàn về rồi để đó đi làm.   Cái bàn còn nguyên trong thùng chưa ráp lạị   Bé Tí rủ: - Chị Tâm với em ráp cái bàn cho ba hen.    Tôi lắc đầu quầy quậy: - Tí rủ lộn người rồi.   Tay chân chị Tâm mà đụng vô mấy cái vụ này thì.... hỏng bét. Con Tí cười cười:
Rất vui khi nhận thư góp ý cuả ông về bài "Dậy Học Trên Đất Mỹ" mà tôi viết cách đây không lâu. Vui nhất là thư của ông đến từ   Cần Thơ,   một miền đất thân yêu mà chắc trong nhiều năm nữa, tôi chỉ còn có thể gặp lại trong những giấc mơ mà thôi. Điều vui hơn là sau khi ông gửi những thắc mắc ấy đến, tôi lại nhận đuợc một lá thư 
Gần hai mươi năm sau ngày miền Nam Việt Nam sụp đổ, Hoàng mới đặt chân đến nước Hoa Kỳ theo diện HO. Tuổi đời gần năm mươi, hai bàn tay trắng, nhờ sự giúp đỡ của hội Từ Thiện và bạn hữu phải làm lại từ đầu, chạy ngược chạy xuôi tìm việc làm để có tiền thanh toán nơi ăn chốn ở. Bạn hữu muốn anh có một
Thằng bé ngồi kế bên chị nó, đòng đưa hai chân trong đôi giày màu trắng có viền đen. Ngồi đối diện với hai chị em nó là người đàn ông có đôi vai gầy, đang chăm chú đọc tờ báo xếp làm đôi, tóc ông lòa xòa rơi xuống vầng trán có nếp nhăn li ti. Thằng bé đưa mắt nhìn đám trẻ tung tăng đùa giỡn trong khung lưới nhựa
Bản Quốc ca Việt Nam được mở đầu cho cuốn băng nhạc, những bản hùng ca thời chiến, mà tôi đã nghe đi nghe lại hơn mười lăm năm nay. Tôi thường tìm đến băng nhạc này mỗi khi lòng xôn xao nhớ về quê hương và những ngày xưa yêu dấu.   Trong lời ca điệu nhạc đầy hùng khí như vẫn còn vang dội những bước chân hiên ngang
Đã mấy lần tôi bỏ chúng ra khỏi túi hành trang chuẩn bị lên đường thì bà cụ lại lén chờ lúc tôi không có mặt bỏ chúng vào,   -hôm ấy là ngày 15 tháng 6 năm 1975, ngày chót theo lệnh trình diện lên đường đi tu huyền- tôi xách cái túi lên thì lại thấy đôi dép râu và bộ bà-ba đen đã nằm lại trong đó từ lúc nào. Bực quá tôi lấy chúng
Mỗi khi hạ về, ngày của Mẹ lại đến. Bất chợt, bâng khuâng, tôi bỗng thấy ganh tỵ với những ai còn được cài bông hồng trên áo!   Sự ganh tỵ ích kỷ, nhỏ nhoi nhưng thật khó tránh khỏi. Thế rồi mọi ký ức, kỷ niệm với Mẹ, về Mẹ lại ùa về vỡ òa từng rung cảm để tôi không thể không cầm viết.   Viết không hay, nhưng phải viết vì
Nhạc sĩ Cung Tiến