Hôm nay,  

Nhìn Lại, Sau “Chuyến Đi Để Đời”

04/08/201600:00:00(Xem: 20732)

Tác giả: Trương Tấn Thành
Bài số 4884-18-30584-vb5080416

Tác giả từng nhận giải Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân Đội. Vượt biển tới được đất Mỹ, ông hiện là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại Học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA.

* * *

Từ lâu, tôi vẫn tự hứa với mình là phải đưa bà xã đi du thuyền ít nhứt là một lần trong đời cho biết với người ta. Hồi tháng Ba năm trước, khi cùng bà xã đi chơi bằng du thuyền lên Alaska trong mười ngày, chúng tôi đã hưởng được những ngày tuyệt vời trên chiếc du thuyền đồ sộ như một thành phố nổi với tiện nghi giải trí ưu hạng. Bà xã hài lòng. Còn tôi thì mãn nguyện vì đã thực hiện được mong ước làm cho bà xã được vui.

Nhưng rồi, “những ngày trên du thuyền tuyệt vời” ấy chấm dứt... ở phòng cấp cứu vì tôi bị biến chứng tuyến tiền liệt. Sau khi xuất viện về nhà tôi phải đeo bịch chứa nước tiểu cả tháng trời trước khi gặp bác sĩ chửa trị. Tuy nhiên cũng “nhờ” vậy mà tôi được sự giúp đỡ và quan tâm tối đa từ các bạn đồng ngũ khi xưa.

Sau khi hồi phục tôi tưởng là mình không còn hào hứng để viết bài nữa nhưng rất may là tôi vẫn còn viết được bài gởi cho mục Viết Về Nước Mỹ. Như vậy cũng đủ để cho tôi niềm vui khi nhìn lại chính mình và cuộc sống sau “chuyến đi để đời.”

Một trong những việc tôi cho là quan trọng và thường làm là thăm hỏi người quen biết, nhất là những người bạn chẳng may bị bịnh nặng phải nằm nhà để vợ chăm sóc. Trong số này có anh bạn mới quen nhưng tôi rất cảm mến anh vì cùng chung hoàn cảnh tù tội cải tạo.

Anh mới qua Mỹ theo diện bảo lảnh chưa được mấy năm thì lâm trọng bịnh phải đi cấp cứu nhiều lần với sự tận tình gíup đỡ của bà vợ. Anh chị qua đây chỉ có hai vợ chồng vì đứa con trai duy nhứt lúc đó không hợp lệ cho nên phải đợi khi anh chị có quốc tịch thì sẽ bảo lãnh cháu qua sau. Anh là một người nói năng khôn khéo và có kiến thức về khoa học kỷ thuật rất cao, còn chị thì trình độ Anh văn rất vững, không bị hạn chế về mặt giao tiếp ở bên này. Tôi được biết anh là nhờ tôi quen thân với vợ chồng người chị vợ của anh từ hồi còn đi học khi mới qua đây. Vợ anh được bà chị qua sau hơn mười năm bảo lãnh.

Mấy năm đầu tôi thường chở anh đi garage sale vào cuối tuần để mua vật dụng lặt vặt về xài. Hai anh em rất hợp tính và có “đồng chí hướng” nên phải nói đó là những ngày vui của chúng tôi. Rồi chẳng may anh bị ngã bịnh đến mức độ trầm trọng có lúc tưởng đã phải vào nằm nursing home. Anh không chịu và xin được nằm ở tại nhà để vợ mình chăm sóc. Đó phải nói là quyết định rất không ngoan và hợp lý của anh chị. Chị vẫn thường nói với tôi là “Chắc anh chết rồi nếu đưa ảnh vô nằm trong nursing home.” Cách đây hai năm, con trai anh chị có qua đây thăm anh chị rồi về trở lại bên đó chờ bảo lảnh.

Gần như tuần nào tôi cũng ghé qua thăm anh và ăn cơm trưa với anh chị. Nhiều khi hai anh em ngồi tâm sự, anh nghẹn ngào tủi phận mình qua đây chẳng được bao lâu chưa làm gì được thì lại lâm trọng bịnh làm khổ vợ con. Tôi nghe anh mà thấy lòng cũng phải ngậm ngùi.

Tôi nghỉ là mình không giúp được gì về vật chất thì sự quan tâm và yểm trợ về tinh thần của mình cho anh cũng không đến nổi vô ích. Những lần tôi đến đến thăm như vậy anh có dịp thố lộ tâm sự, kể lại cho tôi nghe những nổi vui buồn trong cuộc đời mình trong quân ngủ cũng như nổi e chề trong đời tù cải tạo. Hình như tôi chưa nói là anh bị bắt làm tù binh tại chiến trận trước ngày 30 tháng Tư. Chị thường nói với tôi là: “Có anh ổng mới nói chuyện nhiều như vậ đó. Còn không thì chỉ nằm im xem internet thôi.”

Mới tuần rồi tôi đến chơi và phụ với anh để bắt dây từ cái laptop qua màn hình TV. Khi anh ngồi xuống cái ghế con ba chân thì bị lóng cóng mà trượt té. Anh té lăn ra sàn mà không ngồi dậy được. Tôi kéo anh dậy không nổi. Anh phải bò người ra rồi mới từ từ lần vịn ghế đứng dậy. Tôi không ngờ là anh yếu đến vậy. Hồi anh mới qua với tác người cao cả thước bảy, anh rất khỏe mạnh và linh hoạt. Ôi, con người chúng ta khi bị bịnh thì sinh lực không biết nó biến đi từ lúc nào! Mới hồi trưa này tôi ghé thăm anh mà không thấy xe thì biết là chị đã chở anh đi bịnh viện tái khám hay lấy thuốc gì đó.

Tuần rồi tôi lại có tin không vui. Số là cùng quê với vợ tôi là Dì Ba Tuyết, tuổi trên tám mươi. Chúng tôi xem dì như bà dì ruột nên thường thăm hỏi và hay chở dì nhóm họp ăn uống ở nhà. Dì được hưởng chương trình trợ giúp gia cư Số Tám cho người gìa của chính quyền tiểu bang trong một khu apratment khang trang gần chợ và nhà băng thật tiện lợi cho dì và cho người quen đến chơi. Ai trên sáu mươi là bắt đầu quên, chính tôi cũng vậy huống gì là ở tuổi của dì Ba.


Tôi qúi dì ở điểm dì luôn theo dỏi tin tức và tình hình thế giới và có được nhận xét tuy đơn giản nhưng khá đúng về nhiều diển tiến đáng buồn ở Việt Nam cũng như thời sự ở nhiều nơi khác. Khi đọc báo, dì không hề đọc những tin vô bổ mà chỉ đọc những tin tức có liên quan đến con người và đời sống. Thú thật rằng tôi chưa hề được biết có người nào ở tuổi dì mà được như vậy. Tôi thường gọi thăm dì và khi nào có nhóm họp vui gia đình đều đến chở dì đi chơi vì biết dì không hề biết lái xe lại sống cô lẽ. Đi đâu, nếu không có ai chở dùm thì dì phải đi xe bus, và phải chờ xe lâu ngoái trời và mất rất nhiều thời gian. Mùa hè tôi thường chở dì đi garage sale trong vùng. Dì rất thích đi garage sale vàphòng dì ở chẳng mấy chốc cũng trở thành cái kho chứa như kho nhà tôi. Điều mà tôi thêm phục dì là dì tận lực cố công học Anh ngữ, phải nói là ngày đêm, để thi quốc tịch. Sau ba lần bi rớt, lần thứ tư dì đậu. Mục đích dì cần có quốc tịch là để bảo lảnh mấy con của dì đang phải sống cuộc đời vô vọng ở bên đó.

Quí mến dì và tìm cách giúp dì khi dì cần là điều làm cho tôi thấy ít ra mình cũng đã làm được cái gì, dù nhỏ, cho đời mình có thêm ý nghĩa. Tin mừng là ngày hôm qua dì đã tìm được chỗ ở mới. Nghe vậy tôi thật là mừng vì mấy hôm nay dì lo đến mất ăn mất ngủ.

Anh bạn tên Tâm của tôi mà mọi người tặng cho anh biệt danh là “Tâm Tếu” chẳng những là người bạn thân mà còn là “fan” ái mộ tôi và hơn nữa, anh con là người thầy của tôi nữa. Lối sống và lối cư xử của anh đối với mọi người nó nằm trong cái nhìn đời, xin được gọi là “Sao cũng được”. Nghề tay trái của anh phải va chạm với đủ hạng người và ở trong nhiều hoàn cảnh khó khăn. Có lẽ vì vậy hay nhờ vậy mà anh chấp nhận và chịu đựng tất cả để làm công việc của mình. Có những cảnh ngộ anh gặp phải mà khi nghe anh kể lại tôi cũng phải “nộ khí xung thiên” nhưng anh vẫn hề hề cười, tỉnh bơ nói “Đời là vậy anh ơi!”

Cái triết lý tưởng như là “ba phải” của anh nhưng đối với tôi, không dễ mà có được. Nó phải có được từ một người đã từng trải qua nhiều gian lao nghịch cảnh, hết tù tới tội, va chạm rát mặt với thực tế phủ phàng mới có được. Có phải là anh đã được tôi luyện trong “Lò Bát Quái Nhẫn nhục” đó nên giờ đây anh có được thái độ coi sự đời “không như có, có cũng như không”?

Gần như ngày nào tôi cũng trò chuyện với anh qua điện thoai. Hai anh em nói đủ thứ chuyện trên đời, chuyện xấu chuyện tốt, chuyện thanh cao cũng có chuyện ô trược cũng không tha! Mỗi khi tôi lỡ lời anh không bao giờ phật lòng. Ngày hôm sau anh vẫn vui vẻ và hào hứng tán đủ chuyện trên đời. Anh khen tôi là “ một người hay”, còn tôi, tôi phục anh là người thầy vì anh đã truyền cho tôi một “thái độ biết dững dưng nhưng không vô cảm” về cuộc sống và một tấm lòng bao dung của một người bạn tri kỷ hiếm có trên đời này.

Mấy ngày trước Noel năm ngoái, tôi lại nhận được tấm thiệp chúc của anh bạn cùng tên trước kia cùng ở trại tỵ nạn Galang với tôi. Khi còn ở đảo anh giúp việc trong một quán bán tạp hoá và cùng người chủ quán học Anh văn với tôi. Anh nhỏ tuổi hơn tôi và khi nhỏ từng là một chú tiểu tu học trong chùa. Có lẽ nhờ vậy mà tính tình anh thật rộng mở và sẵn lòng tiếp nhận mọi người. Khi sang Mỹ tôi cùng anh và một người bạn tốt cũng ở chung trên đảo mướn phòng apartment chia nhau để sống. Lúc đó tôi và anh bạn kia tiếp tục ghi danh theo học còn anh thì xin vào hảng gỗ làm. Sống với nhau tôi mới nhận ra tính tình trung hậu và mềm mỏng với mọi người của anh. Thú thật là tôi chưa có được hết những đức tính này mà phải học ở anh.

Thời gian qua tôi vì lý do riêng không liên lạc thường với anh dù anh luôn quan tâm đến tôi. Cái thiệp chúc Noel năm nay đến với tôi làm tôi thấy mình đã không đáp lại đúng chân tình của anh từ bấy lâu nay. Tôi liền gọi phone cảm ơn và thăm hỏi gia đình anh. Giọng anh trên máy vẫn vui vẻ và mềm mỏng như thuở nào. Tôi thấy thật vui trong lòng là đã tiếp tục liên lạc lại với người bạn cố tri và cảm ơn thầm là anh đã mở lòng để tôi có dịp nối lại mối thâm giao ngày nào. Tôi đã học được ở anh đức “hỷ xả” để người ta sống vui vẻ với nhau trên cỏi đời ngắn ngủi này.

Tôi nhớ có ai nói là trên sáu mươí thì tính từng tháng cho cuộc đời còn lại của mình. Không lấy đó làm bi quan vì như Phật Tổ đã nói đại ý là đời người không tính bằng năm tháng mà tính bằng trong vòng hơi ta đang thở, do đó tôi xin sống như ngày hôm nay là ngày cuối của đời mình vậy. Và nhứt là luôn chú tâm nhìn cái mặt tích cực của cuộc đời và ở con người đang đồng hành với mình.

Trương Tấn Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,350,179
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Mong bà sẽ tiếp tục viết bằng những chuyện sống thật của người Việt tại Mỹ.
Mai Hồng Thu là tên Việt của tác giả Donna Nguyễn, người đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ, từ nay là bút hiệu. Cô là dân Sài Gòn, sang Mỹ năm 1985, từng sống ở vài tiểu bang như Indiana, New York, Connecticut, hiện là cư dân San Jose, California. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Nguyễn Trần Diệu Hương là một trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ kỳ cựu, được bạn đọc quí mến. Tham dự từ năm đầu, với nhiều bài viết đặc biệt, cô đã nhận giải Danh Dự năm 2001, và sau đó là giải vinh danh tác giả năm 2005 với bài viết “Còn Đó Ngậm Ngùi.” Bài viết mới nhân mùa Trung Thu được tác giả ghi là “Để trân trọng tưởng nhớ phi hành gia Neil Amstrong 1930-2012”
Nguyễn Khánh Vũ là kỹ sư điện toán cho một công ty bên Arizona. Là con một gia đình H.O., từng trải qua nhiều năm khốn khó khi miền Nam đổi đời, tác giả đã góp nhiều bài viết xúc động khi tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm 2004. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả họ Vũ, cư dân Bắc California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn. Tiếp theo, “Trường Đời: Học Làm Chồng” và “Số Đào Hoa” cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả sinh năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan Rang. Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư ở Mỹ và hiện là cư dân HoustonTexas. Tác giả tham dự viết về nước Mỹ từ 2009 và sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.
Tác giả là một nhà văn, nhà báo, đồng thời cũng từng là nhà giáo, nhà hoạt động xã hội quen thuộc với sinh hoạt văn hóa truyền thông tại quận Cam. Ông đã góp nhiều bài giá trị và từng nhận giải danh dự viết về nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Bà là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh năm 1940 tại Cần Thơ. Hai bài viết đầu tiên của bà là tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky.
Tác giả đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012. Nguyễn Văn cho biết ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Cho tới nay, ông đã góp 4 bài: “Chuyện Của Bill”; “Tôi Không Là Ai Cả”; “Ngày Tháng Buồn Hiu”; “Mùa Thu Nashville.” Cả ba bài đều cho thấy cách viết tinh tế và sống động. Sau đây là bài viết thứ năm.
Nhạc sĩ Cung Tiến