Hôm nay,  

Tết Mậu Thân Chẳng Thể Quên

29/04/201800:00:00(Xem: 18546)
Tác giả: Nguyễn Viết Tân

Bài số 5374-19-31215-vb8042918

 
Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, nhận giải bán kết - thường được gọi đùa là giải á hậu 2001.  Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Từ nhiều năm qua, ông là thành viên ban tuyển chọn chung kết nhưng vẫn tiếp tục vui vẻ góp bài mới.

 
 ***
 

Tết Mậu Thân tôi đang học lớp Đệ Tam tại một trường Trung Học ở tỉnh lẻ. Đó là tỉnh Kiên Giang.

Tuổi thiếu niên chưa biết lo lắng gì, vẫn còn vui với ruộng đồng, lâu lâu mượn được cuốn tiểu thuyết hay mua được tờ nguyệt san Tuổi Hoa là đã lấy làm sung sướng, đâu biết những trận chiến khốc liệt đang chờ đón chúng tôi bước vào.

Người ta thường nói đến trận Tổng Tấn Công của VC ở Sài Gòn và nhất là ở Huế, chứ ở các tỉnh khác thì tuy có súng nổ đạn rơi nhưng không thể so sánh với chiến trận ở Huế và Sài Gòn được.

Gia đình tôi làm ruộng cách xa đường liên tỉnh chừng 2 km, cuộc sống tương đối êm đềm ngoại trừ đôi khi có tiếng súng cắc cù trong đêm và những đoàn người bận quần áo đen, vác AK và B40 âm thầm chuyển quân đi trên bờ kinh trước cửa nhà. Những tiếng súng lẻ loi đó như báo hiệu một cuộc ám sát hay bắn sẻ, có tác động đến tinh thần dân chúng lớn hơn từng tràng đạn rất nhiều.

Sáng mùng một Tết, hai chiếc trực thăng cá nhái bay dọc theo quốc lộ. Đây là loại máy bay lần đầu tiên thấy xuất hiện ở vùng này, người nó dẹp lép, mà sau này đi lính tôi mới biết đó là trực thăng võ trang Cobra. Khi nó bay ngang chợ đầu kinh thì có hoả lực bắn lên. Thế là trực thăng vòng lại khai hoả.

Tiếng nổ của những tràng đạn, của trái nổ và hoả tiễn thật khủng khiếp. Khu chợ đầu kinh bốc cháy, mà trong khu đó có nhà của cha đỡ đầu của tôi.

Đường xe bị chặn lại bởi những mô, là mấy cục đất ruộng, những cành cây hoặc ngọn tre. Xe cộ không dám băng ngang, phải đợi đoàn xe quân đội mở đường vì trong mô có mìn hoặc lựu đạn.

Tỉnh Kiên Giang không có bản doanh của Sư đoàn bộ binh VNCH nào, căn cứ lớn cũng không, chỉ có những đơn vị cấp Đại đội của Điạ Phương Quân, và những đồn bốt nhỏ của Nghĩa Quân đóng ở gần cầu hoặc những ngã tư sông rạch.

Những đơn vị lớn của VC cũng chỉ chuyển quân từ Cam Bốt qua vùng U Minh chứ cũng không chiếm cứ vùng nào ở đây. Tuy nhiên an ninh diện địa chỉ dọc theo quốc lộ còn hầu hết thuộc vùng xôi đậu, nghĩa là ban ngày thì Quốc Gia, ban đêm là VC.

Từ sau Tết đến Tổng Tấn công đợt 2 thì cứ ban ngày lính Quốc gia hành quân và bắt lớp tuổi thanh thiếu niên như chúng tôi ra phá mô, phát quang cây dọc theo đường; ban đêm thì VC bắt ra đắp mô, y như bữa trước.

Có lần đoàn xe mở đường gồm 1 xe Com măng đô ca bọc thép với xe Jeep trí súng đại liên và súng cối ngừng ngay đầu kinh. Lúc có tiếng súng cắc cù từ nhà ông Ba Vó bắn ra, lính thấy thấp thoáng có bóng người quần áo đen lấp ló trong hàng cây thì từng tràng đại liên bắn rát trên đường và cây cối, sau đó họ thụt mấy quả súng cối trúng căn nhà ông Ba Vó. Nhà này cách đầu kinh chừng hơn 100 thước.

Khi đó dân chúng đã tản cư vào tuốt trong khu vực nhà tôi nên không có ai bị gì, nhưng bên VC thì có người chết, trước khi rút lui họ chôn tạm mấy xác gần bờ sông, sau mấy ngày bốc lên mùi thúi hoắc.

Mãi sau mày họ mới cải táng đưa chôn đâu không biết, nhưng mỗi khi chúng tôi đi ngang vẫn cảm thấy rờn rợn.

Nhà tôi có nuôi 1 con chó trắng cao lớn, tiếng sủa ồm ồm vang vọng dưới mái nhà tôn. Bên kia ra lệnh phải giết hết chó để khi họ chuyển quân chó không sủa làm lộ con đường họ đi. Con chó này nuôi đã được năm sáu năm, thân thiết với anh em tôi lắm, giết nó sao đành.

Nhớ mấy năm trước, anh Toàn học lớp Đệ Tứ, còn tôi Đệ Lục, mỗi ngày học 1 buổi, khi tan học vừa chạy xe đạp ngang đầu kinh Rọc Bờ Ke thì thấy 1 toán lính lấm lem đang băng ruộng mà ra đường lộ, nhìn họ chúng tôi biết đây là ĐĐ 332 có anh rể tôi.

Quả nhiên một lát sau thấy anh Mai vai đeo súng tay ôm một con chó nhỏ màu trắng ra tới. Anh hỏi:

-Hai đứa muốn nuôi chó không? Nhà kia có bầy chó con đẹp lắm, anh xin mà họ chỉ cho con chó trắng này, vì họ cho rằng chó trắng là chó ma, không ai muốn nuôi.

Chúng tôi thấy con chó mũm mĩm như cục bông gòn nên ôm lấy nó rồi lên xe chạy về liền, sợ anh đổi ý.

Hồi đó chúng tôi học Anh Văn từ cuốn Let's Learn English, có mục Tom's Impression, mà thầy giáo lại dạy đọc là Tôm chứ không phải "Thom" nên tôi đặt tên cho con chó là thằng Tôm luôn.

Nhà quê thì thường gọi chó theo màu như Mực, Đốm, Phèn, hay con chó Tô, Quít... riêng con Tôm thì chưa có ai đặt nên tên nó thành đặc biệt.

Con Tôm lớn nhanh như thổi, nên mới hơn một tuổi mà chú em Chung Mốc có thể cưỡi nó như cưỡi ngựa.

Nó không có vẻ lai bẹc-giê nhưng cao lớn và oai vệ, tiếng sủa vang vọng và chó chung quanh khu đó sợ nó một phép.

Có lần thằng Chung tập võ với bạn, thấy chủ bị đòn chân kẹp cổ, nó phóng tới cạp ngang cần cổ đối thủ nhưng khi chủ quát lên: "Tôm, bạn mà" thì nó nhả ra, ung dung ngồi nhìn như một khán giả.

Tiếng súng hàng đêm nổ liên tục, tôi bị kẹp giữa hai gọng kềm nên vọt lên Sài Gòn, để lại sau lưng ruộng vườn, mẹ và các em cùng con Tôm yêu qúi.

Lên tới gần Bến Lức- Long An thì xe đậu lại dài hàng mấy cây số, hỏi thăm thì người ta nói cầu Bến Lức đã bị mìn đổ xập xuống sông.

Trên ruộng ven Quốc lộ 4 thỉnh thoảng có từng nhóm ba bốn chiếc Thiết vận xa M113 của Mỹ đậu quây thành vòng tròn. Ngồi trên nóc là những người lính Mỹ mặc áo giáp da thịt phơi nắng đỏ như con gà chọi.

Hành khách ngủ gà ngủ gật trên xe trong khi hoả châu soi sáng suốt đêm. Đến sáng chúng tôi theo đoàn người lũ lượt đi vào con đường đất phía tay phải để qua đò rồi đón xe nhỏ mà lên Sài Gòn.

Sau tháng 6 năm 1968 khi cuộc Công Kích Đợt 2 chấm dứt, tôi đi thăm người quen ở trại Nam Hải bên kia bến Phạm Thế Hiển.

Trại này là trại Tị Nạn Cộng Sản mới xây dựng được mấy năm để đón đồng bào từ những tỉnh Bình Dương chạy về lánh nạn, thế mà bây giờ tan hoang. Trên bức tường mà một chiến xa đục thủng như hình cái cổng chào, có hàng chữ sơn đỏ mà người lính Mỹ nào đó xịt lên như hình vòng cung: "Welcome to the Hell".

Cả năm sau, khi được tin an ninh tạm vãn hồi tôi mới về thăm lại nhà ở dưới quê.

Cũng căn nhà xưa cũ, mẹ và em ra đón nhưng tôi như thấy thiếu cái gì. Thằng Chung hỏi:

-Anh kiếm con Tôm phải không? Nó chết rồi.

Tôi bàng hoàng:

-Vì sao nó chết?

-Họ ra lệnh giết hết chó, nên em làm một cái rọ để đến tối thì tròng vào mõm nó cho khỏi sủa, nhưng nó khôn quá, cứ gỡ ra hoài. Họ bèn dùng củ khoai ủ nóng quăng cho những con chó còn sủa khi họ đi qua. Củ khoai bị hàm răng táp ngậm và dính chặt ở đó, nên khi chó gỡ ra được thì đã bị phỏng nặng, sau đó thịt hàm răng cứ thối đi mà chết. Em chôn nó ở dưới gốc cây mận kià.

Thằng nhỏ vừa nói vừa ứa nước mắt.

Đêm đó dưới căn nhà xưa, tôi thao thức không ngủ được, nhìn qua song cửa ánh trăng loang loáng trên tàu dừa, trên lá chuối.

Miền đồng quê có vẻ an bình sao im lìm quá, không có tiếng người lớn, con nít lao xao trên đường làng, không có gà gáy chó sủa, bỗng nghe có tiếng rít vui mừng như tiếng con Tôm mỗi khi chúng tôi trở về nhà.

Tôi bò rột dậy nhìn ra gốc cây mận: Hay là con Tôm nó biết tôi về mà chào đón?

Có gì đâu. Đêm vẫn yên tĩnh.

Từ xa có tiếng chim cú rúc lên vài tiếng rời rạc và hoả châu vẫn thỉnh thoảng treo trên bầu trời.

*

Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, tôi vào lính và phiêu dạt ra tận miền Trung.

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Huế từ trên cao, sau 2 năm rồi mà sự tàn phá của trận chiến Mậu Thân cũng chưa hề phai lạt. Tôi ngồi trên trực thăng bay nửa vòng trên Thành Nội rồi đáp xuống sân Tây Lộc.

Những đền đài đổ nát, lầu các lở lói vẫn còn y nguyên.

Lúc chúng tôi đi ăn cơm trưa ở gần Đập Đá mới nhìn thấy rõ nét chịu đựng, sự khắc khổ vẫn còn hằn sâu trên gương mặt người dân xứ Huế.

Thế rồi tôi gắn bó với mảnh đất đó đến 5 năm, suốt từ trận Hạ Lào- Lam Sơn 719 cho đến trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Còn sống cũng là số trời.

Những đồng đội trong những năm đó nay ai còn ai mất?

Nguyễn Viết Tân

Ý kiến bạn đọc
29/04/201815:25:35
Khách
Bài anh viết làm tôi nhớ quê tôi cũng nằm trong vùng xôi đậu thời chinh chiến, y hệt như quê anh, cũng cảnh VC về quấy nhiều ban đêm, đánh đồn bắn sẻ, nhất là lịnh giết chó mà tôi cũng có viết thành câu chuyện “Ai nỡ giết Mi Nô”. Đồng cảnh, đồng thuyền, Cám ơn anh cho tôi được đọc một bài vô cùng thích thú.
29/04/201811:40:00
Khách
Cảm ơn bác Tân về bài viết mới này. Sáng sớm Chủ nhật ngồi đọc bài viết như giở lại từng lớp thời gian đã bụi mờ... lòng bỗng rưng rưng nhớ từng sáng sớm tới chiều hôm ở vùng quê trong không khí Mậu thân đúng là làm sao quên được ánh hoả châu: đẹp, buồn, và một nỗi lo lắng về chiến tranh, ngày mai mịt mờ thời ấy...
Chúc bác sức khoẻ, an vui, và mong sớm gặp lại bác cùng các anh chị ở quận Cam.
Phan
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,545,295
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Tôi mơ mơ màng màng nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ bên cạnh giường ngủ, và vội vàng ngồi bật lên vì đã gần 12 giờ trưa. Đầu óc tôi vẫn còn choáng váng và khó chịu lắm, nhưng nghĩ tới mảnh giấy mẹ để trên gối, tôi chạy vội ra nhà bếp không kịp đánh răng rửa mặt. Tối hôm qua, phải nói là sáng nay mới đúng
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Nhạc sĩ Cung Tiến