Hôm nay,  

Chuyện Ông Giáo

24/03/201900:00:00(Xem: 14033)
Tác giả: Thảo Lan

Bài số  5648-20-31454-vb8032419

 
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.

 
***


Trời cuối năm mau tối, mới hơn 6 giờ mà đã tối mịt mù. Bên ngoài trời mưa rả rích thật buồn. Ông Giáo chợt cảm thấy một nỗi buồn nhè nhẹ từ đâu lan đến tâm can. Mấy đứa cháu nội của ông đang ngồi chơi game trên chiếc máy vi tính phát ra tiếng gì tựa như tiếng côn trùng kêu rả rích vào những buổi chiều mưa xa xưa khi còn ở quê nhà.

Đã lâu lắm rồi ông không còn được nghe những tiếng kêu như thế vào những đêm mưa, nhất là khi trời bắt đầu trở lạnh ở bên Mỹ này. Ông chợt nhớ đến những đêm mưa xa xưa ở quê nhà khi ông còn trẻ. Nhớ những tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu vang khắp nơi. Nhớ đến bài văn mà ông đã dạy cho bao thế hệ học sinh trong chương trình lớp Một mà giờ ông vẫn còn thuộc nằm lòng phần mở đầu.

“Mới hơn 8 giờ tối, mưa mới tạnh. Tiếng ễnh ương kêu uềnh oang khắp vườn. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau. Tí lại ngồi bên cha thỏ thẻ, “con nhớ má và em Tơ quá ba à”. Bác Hai Hoành xen vô trêu Tí “tối nay Tí và ba ở lại đây....” . Bài này còn dài lắm nhưng ông chỉ còn nhớ đến đó.

Bây giờ các đứa cháu của ông làm gì biết được những bài văn mộc mạc như thế. Chúng làm sao hiểu được có những lúc ông chúng nhớ da diết một tiếng cóc nhái kêu, một tiếng dế gáy vang trong đêm tối. Làm sao chúng có thể hiểu được nhiều khi ông chúng nó thèm nghe một tiếng mưa rơi trên mái tranh vào lúc nửa đêm. Thèm cái mùi hơi đất xông lên từ những cơn mưa đầu mùa. Đến ba của chúng, con trai ông, mà giờ đôi khi cũng quên hết những kỷ niệm ngày xưa thuở thơ ấu của nó thì làm sao những đứa cháu ông sinh đẻ ở Mỹ này lại có thể hiểu được nỗi lòng của ông chúng nó.

Ông Giáo năm nay đã bước sang tuổi 80. Ngày xưa khi còn trẻ ông có dạy học ở một ngôi trường làng tại quê ông bên dòng sông Cửu Long đục ngầu phù sa. Cuộc sống khi ấy thật êm đềm với những người dân thật thà chất phác.

Rồi chiến tranh xảy đến đã tàn phá làng quê ông và cướp đi người vợ hiền của ông. Ông đem thằng Hai, đứa con trai duy nhất mà người vợ sanh được cho ông khi đó mới ngoài ba tuổi, lên Sài Gòn để kiếm sống. Ông giáo làng khi xưa giờ phải lăn lộn làm mọi việc nặng nhọc từ phụ hồ đến khuân vác.

Sau một thời gian, ông dọn về khu nhà trọ của những người dân lao động lam lũ ở Khánh Hội. Hàng ngày ông đạp xích lô kiếm sống bỏ mặc thằng Hai lê la trong sự đùm bọc của những người dân cùng xóm. Tối về ông cố gắng dạy cho thằng Hai để cho nó biết chút chữ nghĩa với đời chứ mang tiếng là con ông giáo mà một chữ bẻ đôi không biết thì ông sợ mang tội với tổ tông. Dần dần khi nhận thấy các con em của những người cùng xóm đều không có điều kiện để đi học đến nơi đến chốn như thằng Hai, ông đã dạy thêm cho chúng mỗi tối.

Ngoài việc giúp cho các trẻ nhỏ biết đọc biết viết, ban đầu ông chỉ dạy như để phần nào đền đáp lại tấm lòng của những người dân nghèo ở đây đã đối xử với hai cha con ông khi mới dọn đến. Nhưng dần dà ông mới nhận thấy công việc dạy trẻ nhỏ ở đây đã tạo cho ông cái cảm giác là người hữu ích cho xã hội và nó cũng đã giúp cho ông được tiếp tục theo đuổi cái nghề mà bao đời nay cha ông của ông đã theo đuổi nó.

Mặc dù công việc đạp xích lô của ông cũng là một công việc lương thiện, đổ mồ hôi để kiếm bát cơm nhưng sao bấy lâu nay trong lòng ông vẫn có cảm giác không giúp ích được gì nhiều cho xã hội. Và điều khiến ông cảm thấy ấm lòng đó là ông lại được gọi bằng cái tên trìu mến “ông Giáo” thay vì “tía thằng Hai” như trước kia. Ôi lâu lắm rồi từ ngày ông bỏ làng quê, bỏ dòng sông để lên Sài Gòn bươn chải kiếm sống đến giờ ông mới lại được gọi bằng hai chữ “ông Giáo” thân thuơng này.

Thế rồi thằng Hai cũng được vô trường học. Ông Giáo vẫn tiếp tục mở lớp dạy thêm buổi tối cho các trẻ nhỏ trong xóm và cả những bạn học cùng lớp của thằng Hai. Ông không những chỉ dạy trẻ mù chữ không có điều kiện đến trường mà còn mở lớp dạy thêm cho các học sinh cần học thêm nhất là các em học sinh lớp Năm chuẩn bị để luyện thi đệ thất. Nhờ thế đời sống của hai cha con ông Giáo cũng đỡ vất vả hơn trước. Những hôm mưa bão liên tục vắng khách hoặc những hôm ốm đau không chạy xích lô được ông không còn phải lo thiếu hụt nhiều như xưa nữa.

Rồi thì thời thế đổi thay. Người lao động chân tay như ông được đề cao trong xã hội mới nhưng cuộc sống hai cha con ông lại càng vất vả hơn như những người dân khác ở khu xóm ông. Tuy vất vả nhưng hòa bình rồi, nhìn thằng Hai được học hành đến nơi đến chốn không còn phải lo tương lai phải cầm súng giết chóc nữa ông Giáo rất yên tâm. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi chiến tranh lại xảy ra hết ở biên giới phía Tây Nam lại đến biên giới phía Bắc.

Chương trình giáo dục thì sao mà lạ quá không giống những gì ông dạy học trò ngày xưa. Đâu rồi cái thời “tiên học lễ hậu học văn” hay “muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Không muốn nhìn tương lai thằng Hai phải cầm súng bắn giết trên đất người, ông Giáo gom hết tài sản dành dụm được của cả một đời chỉ được một vài chỉ vàng và cạy cục xin để gửi cho nó đi theo một chuyến tàu vượt biên. Chủ tàu là người có con được ông Giáo dạy dỗ khi xưa nên đã nể nang nhận cho thằng Hai đi theo với giá rẻ hơn mọi người khác.

Cái ngày thằng Hai đi biệt tăm chưa có tin tức về, ông Giáo lo lắm. Ông lo có lỗi với mẹ nó. Ngày bà Giáo ra đi trong lửa đạn, trước khi hấp hối bà đã dặn dò ông phải cố gắng chăm lo nuôi nấng cho thằng Hai nên người. Ông còn lo có lỗi với tổ tông vì chỉ có nó là người thừa kế hương hỏa cho họ nhà ông. Thế mà sao ông lại nỡ đẩy con ra giữa biển khơi bao la không bến bờ như thế. May mà chuyến đi của thằng Hai được trót lọt.

Sau một thời gian dài ở đảo thằng Hai được nhận vào Mỹ. Thư từ qua lại ông Giáo luôn nhắc nhở con mình ráng theo đuổi con đường học vấn. Cũng may thằng Hai cũng biết nghe lời cha và có thể cũng nhờ gia đình cha mẹ nuôi người Mỹ của thằng Hai biết chăm lo hướng dẫn nó nên sau khi hết trung học thằng Hai đã biết ghi danh học đại học để có tương lai ổn định.

Rồi đến ngày thằng Hai cưới vợ. Ông vừa mừng mà lại vừa buồn. Mừng vì đã là bậc làm cha mẹ thì còn có nỗi lo nào lớn hơn là nỗi lo cho con cái mình ấm êm hạnh phúc. Mừng vì ông cảm thấy đã thực hiện trọn vẹn được lời hứa năm xưa với người vợ quá cố. Nhưng buồn vì không được đứng ra lo cho ngày trọng đại của đứa con duy nhất của mình. Buồn vì cảm thấy từ nay đã có người chia sẻ bớt với ông tình thương mà trước giờ chỉ có hai cha con dành cho nhau.


Rồi thằng Hai đẻ cho ông đứa cháu đích tôn để thừa kế giòng họ. Ba năm sau nó cho ông thêm một đứa cháu gái nữa cùng với tờ giấy bảo lãnh qua đoàn tụ. Cầm tờ giấy trên tay ông suy nghĩ lung lắm. Ông không muốn bỏ quê hương, bỏ phần mộ tổ tiên và mẹ thằng Hai không người hương khói. Cuối cùng được lời khuyên của bạn bè chòm xóm, ông về quê bốc mộ mẹ và ông bà nội thằng Hai đem hỏa táng rồi ký gửi vô chùa. Từ đây ông cảm thấy yên tâm vì không còn lo phần mộ bị lạnh lẽo hương khói những ngày lễ Tết nữa.

Cái ngày đầu tiên qua đoàn tụ với thằng Hai không cho ông một cảm giác như mong đợi. Chỉ có 3 bố con lếch thếch đi đón ông. Hỏi mẹ sấp nhỏ đâu thì thằng Hai nói phải đi làm. Thằng Tèo cháu đích tôn của ông năm đó mới 5 tuổi còn con Bí em nó mới chỉ lên 2 mà sao người mẹ nào lại để cho bố chúng nó trông như vậy. Trên đường lái xe về nhà thằng Hai tâm sự cùng ông.

- Con không muốn tía lo nên không kể ra trong thư mà thôi. Chúng con ly thân với nhau cả hơn 6 tháng nay rồi. Con thuơng hai đứa nhỏ nên dành phần nuôi mà cũng may mẹ tụi nó cũng không có ý kiến gì.

Ông Hai ngán ngẩm buồn bã than thầm trong bụng không hiểu kiếp trước hai cha con ông có làm gì ác không mà nay cả hai lại phải chịu cảnh góa vợ sớm như nhau. Có nhiều lúc ông buồn quá muốn bỏ về Việt Nam sống nhưng lại nghĩ đến cảnh ba cha con thằng Hai côi cút nên ông lại không nỡ. Rồi từ đó ông phụ với thằng Hai chăm nom hai đứa bé.

Thằng Tèo con Bí đều ngoan ngoãn biết vâng lời ông. Nhờ có bàn tay của ông Giáo trong nhà mà thằng Hai có thể yên tâm làm việc. Cũng nhờ có ông mà hai đứa cháu nội biết đọc và viết tiếng Việt một cách rành rọt. Đến năm thằng Tèo và cả con Bí đều vào đại học thì trời xui đất khiến làm sao mà thằng Hai lại về Việt Nam cưới một cô vợ trẻ hơn mười mấy tuổi đem qua Mỹ.

Được cái trời không nỡ dồn ai mãi vào bước đường cùng nên cô con dâu sau này của ông rất ngoan ngoãn chịu chăm lo nhà cửa và biết kính trên nhường dưới. Rồi cô con dâu trẻ này lại cho ông thêm hai đứa cháu gái kháu khỉnh sinh đôi nữa. Thằng Hai lúc này thì công danh sự nghiệp cũng được tiến triển tốt nên cuộc sống cũng thoải mái. Hai đứa cháu gái nhỏ ngoan ngoãn dễ thuơng lại được ông nội dạy cho tiếng Việt như hai anh chị nó ngày trước.

Bây giờ thì hai đứa cháu nhỏ của ông đã lên 10. Kỳ này ba mẹ nó gọi tên Mỹ ở nhà luôn là Jen và Jess, đọc tắt của Jennifer and Jessica. Nhiều lúc ông chép miệng than đặt tên con cái chi mà đọc nghe trẹo cả lưỡi.

Thằng Tèo, con Bí cũng đã lập gia đình và mỗi đứa cho ông một đứa chắt xinh xắn như thiên thần. Chỉ có điều chúng nó lấy người bản xứ mà lại ở xa nên ông Giáo không có dịp để dạy cho hai đứa chắt vài câu tiếng Việt. Ngày ngày sau khi thằng Hai đi làm thì vợ nó chỉ ở nhà đưa đón hai đứa con đi học rồi lo cơm nước. Ông Giáo thì lanh quanh làm vườn chăm sóc mấy luống hoa, vài khóm rau ngoài vườn. Dạo gần đây ông không còn cảm thấy khỏe như xưa nữa nên không còn ra vườn thuờng xuyên như trước.

Bắt đầu năm nay thì vợ thằng Hai cũng đã xin đi phụ làm cho tiệm nail khi hai đứa cháu đã đến trường. Cả ngày quanh quẩn ở nhà chán ông Giáo lại càng nghĩ mông lung đến những chuyện xa xưa. Đôi khi ông lại nhớ đến những áng văn mộc mạc, những câu hò trên sông nước của người dân quê ông bên dòng sông Cửu Long quanh năm đục mầu phù sa. Ông tiếc rồi ông lại lo vì rồi đây các cháu ông, những đứa trẻ sinh ra trên đất Mỹ này làm sao có thể cảm được cái hay của những áng văn chương xa xưa.

Chả cần đến thế hệ các đứa trẻ ở hải ngoại, ngay cả những đứa trẻ ngay tại Việt Nam giờ đây ông nghĩ chúng cũng chả còn quan tâm đến những gì mà thế hệ ông ngày trước quan tâm. Với chúng thì chỉ có các trò chơi game trên phone, trên tablet, trên video là có thể lôi cuốn và có thể khiến chúng suốt ngày dán mắt vào.

Do cảm thấy cái ngày ông phải đi gặp má thằng Hai cũng không còn xa lắm, ông cứ nghĩ làm cách nào để có một di sản tinh thần nào đó để lại cho đứa con duy nhất của ông và các con cháu của nó. Ngày xưa vì chiến tranh, vì kế sinh nhai nên ông đã không có đủ điều kiện để lo cho thằng Hai có một cuộc sống đầy đủ về cả vật chất lẫn tinh thần.

Giờ thì rõ ràng nhờ phúc đức tổ tiên, và ông tin nhờ hai cha con bao lâu nay ăn ở hiền lành nên cuộc sống thằng Hai không hề thiếu thốn cực khổ như cha nó ngày trước. Tuy nhiên ông vẫn cảm thấy thiếu sót khi nghĩ đến không truyền lại được cho thằng Hai những áng văn hay, những tác phẩm kinh điển của kho tàng văn học Việt Nam như ngày xưa cha ông của ông đã truyền lại cho ông khi ông còn là đứa bé. Ôi sao mà ông Giáo nhớ những lúc xưa kia ông nội ông ngồi vuốt râu khề khà đọc cho ông nghe Lục Vân Tiên.

Trước đèn xem truyện Tây minh,

Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,

Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.

 

Rồi đến cha ông những lúc la dạy con cũng lấy lời giáo huấn của cụ Đồ Chiểu ra để chỉ bảo cho ông điều hay lẽ phải.

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình

 

Rồi khi ông đến tuổi biết tự mình đọc thì sao mà quên được những lúc ông miệt mài xem những quyển tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hay của những nhà văn miền Nam khác như Sơn Nam hay Bình Nguyên Lộc. Ông nghiền ngẫm xem đi xem lại cái cảnh thầy phái viên nhà báo Chim Trời đi xuống ấp Cà Bây Ngọp tìm độc giả Tư Có để truy thâu tiền báo trong Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư của Sơn Nam. Ông xem đến thuộc nằm lòng mà vẫn không thấy chán.

Ôi cái ấp Cà Bây Ngọp ở miệt Rạch Giá đó không biết chỉ có trong trí tưởng tượng của nhà văn hay là có thiệt mà sao ông thấy gần gũi y như quê ông ngay bên dòng sông Cửu Long này. Ông lại nhớ đến cái thời ông vào tuổi thanh niên trai tráng chiều chiều vác chiếc đàn bầu đi ca Dạ Cổ Hoài Lang ở xóm bên.

Từ là từ phu tướng

Bảo kiếm sắc phong lên đàng

Vào ra luống trông tin nhạn

Đêm năm canh mơ màng

Em luống trông tin chàng

Cho gan vàng quặn đau í à

 
Rồi ông nhớ lời má thằng Hai trách yêu.

- Người ta nói 'Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu'. Ai biểu hồi đó ông cứ cho tui nghe đàn bầu chi để giờ tui phải bỏ tía má dìa với ông.

Ôi sao mà ông nhớ cái ánh mắt long lanh của má thằng Hai khi nói câu đó. Càng nghĩ miên man ông càng buồn nhưng rồi trong đầu ông bỗng lóe lên một ý nghĩ. Phải rồi ông đã biết di sản mình sẽ để lại cho thằng Hai và mấy đứa cháu chắt của ông là gì.

Nghĩ đến đây, ông đứng phắt dậy lấy ngay giấy bút ra ngồi xuống viết. Từ đây mỗi ngày ông sẽ viết chuyện đời ông từ thuở còn lê la bên dòng sông đục mầu phù sa đến khi bươn chải kiếm sống ở đất Sài Thành rồi lạc bước lưu vong. Đây chính là cái di sản văn hóa mà ông dự định sẽ truyền lại cho thằng Hai và các con cháu của nó, bắt đầu bằng cái tựa “Chuyện Ông Giáo”.

Thảo Lan

Ý kiến bạn đọc
25/03/201901:28:39
Khách
Cám ơn Phạm Thị Kim Dung rất nhiều. Những lờ khen khích lệ của độc giả là niềm vui cũng như động lực cho những người cầm viết tài tử như Thảo Lan để có thể viết thêm nhiều hơn nữa.
Thảo Lan
25/03/201900:06:14
Khách
Chào Tác Giả Thảo Lan,
Cám ơn Tác Giả đã cho tôi đọc một bài thật hay, văn phong nhẹ nhàng tỉ mỉ. Kết cuộc có hậu dễ thương uyển chuyển qua ba thế hệ, từ quê nghèo VN qua tới xứ Mỹ cơm no ấm áo; Như thế còn gì bằng?
Ptkd
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 865,462,940
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Tôi mơ mơ màng màng nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ bên cạnh giường ngủ, và vội vàng ngồi bật lên vì đã gần 12 giờ trưa. Đầu óc tôi vẫn còn choáng váng và khó chịu lắm, nhưng nghĩ tới mảnh giấy mẹ để trên gối, tôi chạy vội ra nhà bếp không kịp đánh răng rửa mặt. Tối hôm qua, phải nói là sáng nay mới đúng
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Nhạc sĩ Cung Tiến