Hôm nay,  

Mẹ Tôi Nằm Bệnh Viện ở Mỹ

11/05/201900:00:00(Xem: 20672)
Tác giả: Lê Xuân Mỹ

Bài số  5686-20-31493-vb7051119

 
Ngày mai, Chủ Nhật 12, 2019 sẽ là Ngày Lễ Mẹ. Mời đọc bài viết của Lê Xuân Mỹ, một kỹ sư, làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California. Qua Mỹ năm 1998. Cha học tập cải tạo chết trong trại Vĩnh Phú năm 1979, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ.

 
***

89 năm trôi qua, và đây là lần đầu tiên mẹ phải làm phẫu thuật. Một cái vấp té tưởng như nhẹ nhàng nhưng đã làm vỡ xương đầu gối chân phải.

Như những lần khó khăn trải qua trong cuộc đời, mẹ chịu đựng những cơn đau mạnh mẽ hơn tôi tưởng tượng nhiều. Những ngày chờ đợi đến ngày lên bàn phẫu thuật, di chuyển khó khăn với cái chân đau nhức, mẹ vẫn không than thở.

Không chịu nằm yên một chỗ. cố gắng di chuyển từ giường ra phòng khách, từ bếp ra phòng ăn. Khập khễnh làm quen với cái walker lần đầu tiên trong đời, bà cố gắng di chuyển chầm chậm từng bước chân. Không ai nghĩ rằng bà lão tuổi 90 đang mang trong mình một đầu gối vỡ đôi sưng húp.

Mẹ tôi là vậy. Kiên cường và mạnh mẽ như những ngày hai mẹ con vất vả kiếm sống sau 1975. Những tháng năm đen tối, nhọc nhằn. Chồng học tập cải tạo đâu đó ở miền Bắc xa xôi, một mình xoay sở với đàn con còn thơ dại. Hai vợ chồng tôi cùng mẹ lăn lóc làm đủ thứ nghề để tồn tại trong một đất nước đã không còn là quê huong yên bình.

Ngày ba rời bỏ chúng tôi một cách tức tưởi nơi miền đất tận cùng biên giới Việt Trung, những tưởng mẹ đã ngã quy với những uất hận và đau khổ tột cùng. Nỗi đau của một người đàn bà mất chồng làm mẹ như điên như dại. Cái xóm nhỏ ở khu phố Lam Sơn những năm 1978 không ai không biết bà bún bò Huế của những tháng ngày điên dại đó. Cả cái chợ Cây Quéo đều biết đến câu chuyện của người đàn bà đầu tiên có chồng sĩ quan chết trong trại cải tạo. Cái uất ức khiến mẹ không biết sợ, gặp cán bộ là chửi, gặp công an là mắng.

Nhưng rồi cái gánh nặng gia đình, vì đàn con còn quá nhỏ, nén lại hận thù và đau khổ, mẹ và vợ chồng tôi cùng cố gắng dìu nhau vất vả mưu sinh.

Người đàn bà trước 75 là vợ một sĩ quan cảnh sát, có người ăn người ở, bây giờ lam lũ chạy ăn từng bữa, bán từng chiếc áo, đôi giày cũ, kiếm từng đồng bạc cho mình và cho gia đình, không một chút than van. Mẹ là vậy. Cứng cỏi như cây tùng, cây thông. Cái gia đình này, không có mẹ không biết rồi sẽ ra sao.

Và năm tháng qua đi, chồng chết , một mình thân cò lặn lội suốt gần 20 năm, vượt qua bao cơn sóng dữ, cuối cùng mẹ cũng đem được 9 người con đến định cư trên miền đất xa xôi này. Ba vẫn còn nằm lại ở mảnh đất nhỏ sau vườn ngoại nhưng tôi biết ba lúc nào cũng ở bên mẹ và bên anh em chúng tôi.

Qua một đất nước xa lạ, tiếng Anh tiếng u một chữ cũng không biết, người đàn bà học lực chỉ mới đến trình độ tiểu học, tuổi đã trên 60 một lần nửa lại mò mẫm từng bước đi, cùng các con cố gắng tồn tại một cách lương thiện trên quê người. Mọi thứ đều bắt đầu như những ngày đầu tiên theo chồng bỏ Huế về Đà Nẵng lập nghiệp. Chỉ khác ngày xưa có vợ có chồng, những năm 1992, mẹ một mình gà mái nuôi con với một trái tim cô đơn và một nỗi buồn u uẩn. Nhưng vì mẹ là mẹ tôi, một người đàn bà nhỏ nhắn nhưng vĩ đại, bỏ mặc mọi khó khăn gian khổ, mọi chướng ngại chông gai, mẹ đều can đảm vượt qua.

Và khi những đứa con của mẹ đủ cánh đủ lông, yên bề gia thất, mẹ bị Alzeithmer. Đó là nỗi bất hạnh nhưng cũng là điều may mắn. Trên 60 năm sống bên mẹ, cùng nhau qua những tháng năm hạnh phúc bình yên, những khoảng thời gian đen tối tủi nhục và cả những chuỗi ngày lang thang lưu lạc quê người, không ai hiểu mẹ hơn tôi và không ai thương tôi bằng mẹ. Ẩn dấu dưới cái bên ngoài cứng cỏi như đàn ông của mẹ là cái tình cảm yếu đuối của người đàn bà hiền lành xứ Huế. Sau những giờ phút quần quật làm việc là một nỗi nhớ mênh mông trong lòng mẹ. Mẹ hay khóc một minh trong đêm vắng.

Những kỷ niệm của một thời êm ấm củ không bao giờ phai nhoà trong mẹ. Mẹ nhớ ôn nhớ mẹ, nhớ chị nhớ em, nhớ bạn bè của khu An Lăng dưới chân núi Ngự Bình xa xưa của mẹ. Mẹ nhớ về ba và những tháng ngày theo ba đi 4 vùng chiến thuật. Những ngày chiến tranh vất vả theo chồng đi khắp các tĩnh miền trung. Những thời khắc của tình yêu và những hạnh phúc ngắm nhìn những đứa con lần lượt chào đời.

Mẹ nhớ nhiều lắm. Nhất là vào những ngày mùa đông trời mưa tuyết, mẹ nhớ da diết cái ngày thật xa đó. Khi những đứa con lần lượt xa khỏi vòng tay mẹ, khi tuổi tác càng ngày càng cao , mẹ càng thấy trống vắng, nỗi nhớ trong lòng mẹ càng nhiều. Và khi cái hiện tại không còn là nỗi thiết tha, mẹ bắt đầu quên cái hôm nay, quên những chuyện vừa mới qua đi. Với mẹ đâu có gì vui. Mẹ không còn cái quyền uy của cái thời tuổi trẻ. Mẹ thèm những vòng tay ấm, những vuốt ve quấn quýt của những đứa con thân yêu mà hình như càng ngày càng ít đi. Mẹ càng lúc càng cô đơn. Mẹ càng lúc càng chỉ nhớ đến cái thuở xưa. Mẹ quên trước quên sau, và mẹ bị alzeithmer

Năm 2008, mẹ về ở với vợ chồng tôi khi bệnh tình trở nên xấu hơn. Không phải dễ dàng để chăm sóc cho một người mắc bệnh về trí nhớ nhưng tôi luôn tin rằng với tình yêu của chúng tôi, với lòng yêu thương về ba trong trí nhớ, thời gian còn của mẹ sẽ dài thêm.

Me không còn có những xúc cảm của những lần gặp mặt, những giọt nước mắt của những buổi chia ly. Người nào với mẹ cũng thấy quen quen mà không bao giờ nhớ mặt nhớ tên. Vậy mà tốt. Nếu không mẹ sẽ nhớ lại những tháng ngày đen tối, cái chết bi thảm của ba. Lại nhớ đến quắt quay những đứa con đang ở rất xa của mẹ. Mẹ ăn được, ngủ được nhưng mẹ không buồn không vui, không giận không hờn. Và vì vậy mẹ sống hồn nhiên mạnh khỏe bên cạnh chúng tôi.

Nhưng dù trí nhớ có thay đổi thì cái tính cách cứng cỏi, kiên cường, chịu đựng gian khó vẫn luôn còn trong mẹ. Ngay cả trong thời khắc khó khan, đau đớn này, cái ngày mẹ phải vượt qua lần giải phẩu đầu tiên trong suốt cuộc đời của mẹ.

Vào bệnh viện từ 2 giờ trưa. 8 giờ tối mỗ. Ca mổ kéo dài 3 tiếng. Khi mẹ được đẩy lên phòng hồi sức thì cũng đã 1 giờ sáng. Hai vợ chồng tôi và đứa em út ở lại bệnh viện cho đến khi bà tỉnh dậy. Mơ mơ màng màng dưới ảnh hưởng của thuốc mê, bà vẫn chưa biết mình vừa trải qua một cuộc phẫu thuật nối xương kéo dài 3 giờ. Với một người khoẻ mạnh trẻ tuổi có thể sẽ là bình thường, nhưng với bà già gần tuổi 90, cùng căn bệnh tiểu đường nặng, mọi chuyện không dễ dàng. Bác si bảo tinh thần bà rất mạnh so với những người cùng tuổi nhưng chắc chắn thời gian phục hồi sẽ lâu hơn. Tôi biết mẹ và chúng tôi sẽ có một khoảng thời gian khó khăn phía trước để có thể trở lại như. Nhưng tôi tin với tính cách kiên cường của bà, mẹ sẽ lại vượt qua thử thách này như từng làm trong suốt cuộc đời.

Chỉ mới ở bệnh viện 3 đêm, mẹ nổi tiếng ngay. Các y tá bệnh viện ai cũng biết cái bà lão người Việt này. Ba đêm ở ba phòng khác nhau. Không phải vì sự sắp xếp của bệnh viện mà chính vì cái cứng cỏi pha chút ngang bướng của mẹ.

Ngay đêm đầu tiên, khi những người vừa giải phẫu xong còn đang ngủ say, nửa đêm mẹ dậy lò dò bước xuống giường. Không ai nghĩ bà có thể cử động cái chân sau phẫu thuật nhanh như thế. Hình như bà không biết đau. Y tá dìu bà lên giường để rồi sau đó phát hiện bà bước xuống giường lần thứ hai lúc nửa đêm. Thế là sợ bà té trở lại rất nguy hiểm, y tá dời bà sang căn phòng ngay trước cửa phòng y tá trực để dễ theo dõi.

Đêm thứ hai, bà lại bước xuống giường một mình,  đòi đi tiểu. Y tá đưa dụng cụ bảo bà nằm tiểu trên giường. Bà dứt khoát không chịu, bảo dơ dáy. Nằm tiểu không được. Năn nỉ mấy cũng không được, phải gọi hai y tá trực mới đưa bà vào restroom được. Rồi cũng giống như đêm trước, lại thấy bà bước xuống giường khi gần sáng.

Thế là y tá trưởng quyết định dời bà qua phòng 5 người có người theo dõi ngay trong phòng 24 trên 24. Cho chắc ăn.

Y tá nói lần đầu tiên mới thấy một người như vậy. Thường sau khi mổ đầu gối, rất đau, bệnh nhân chỉ nằm yên, sau đó có người tới tập mới đi lại được nhưng cũng chỉ từng bước một và cũng phải vài ngày sau. Chứ đâu như bà lão ngườii Việt này. Có thể người bệnh Alzeithmer, cái cảm giác nóng lạnh, cái đau đớn nó mơ hồ như trí nhớ. Bà có thể đã không nhận ra cái thể trạng yếu đuối của đôi chân mình. Nhưng như vậy cũng rất nguy hiểm. Có thể bà thấy ít đau nhưng thực tế thì cái chân mới mổ xong vẫn rất mong manh. Có thể bà tin vào cái mơ hồ của tiềm thức, không khéo té lại thì khổ. Bác sĩ dặn. với những người như mẹ, càng cần phải để ý nhiều hơn. Cần phải chăm sóc kỹ càng hơn.

Thế là khi đem mẹ về nhà, vợ chồng chúng tôi phải ngủ sofa phòng khách. Thôi thì coi phim Đại Hàn toàn tập cho chắc. Vừa coi phim vừa thay phiên nhìn vào camera trong phòng mẹ 24/24. Mỗi khi nghe tiếng lục đục trong phòng là biết bà đang chuẩn bị bước xuống giường. Mạnh quá cũng khổ, cũng lo. Chỉ sợ mẹ té thôi, nhưng tôi mừng vì sẽ mau thôi, chân mẹ sẽ trở lại bình thường như trước kia, phải không mẹ của con.

 

San Jose 2019

 Lê Xuân Mỹ

Ý kiến bạn đọc
20/06/201921:20:13
Khách
Cám ơn bài viết hay và cảm động của tác giả. Cầu mong bà luôn được an lành 🙏
17/06/201920:22:15
Khách
Xin cám ơn những đồng cảm của các bạn
14/05/201916:21:56
Khách
Bài viết thật hay và cảm động
13/05/201923:54:16
Khách
Bài viết thật cảm động và dí dỏm . Cảm ơn tắc giả đã chia sẽ
12/05/201908:02:26
Khách
Sao tôi nhớ mẹ của tôi quá! Mẹ của tôi ở VN, mà tôi chẳng thể nào bay về chăm sóc mẹ được! Mẹ tôi y như người mẹ này! Nay mẹ đã 87 rồi!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,997,678
Tác giả có ba tập thơ song ngữ Anh-Việt đã xuất bản. Cô sinh tại Việt Nam năm 1975, định cư tại Hoa Kỳ từ 1994, khi đã 19 tuổi. Năm 2004-05, cô được cấp học bổng Fulbright, bậc tối ưu, để thực hiện nghiên cứu về người Việt tại Thụy Điển. Sau khi tốt nghiệp cao học hai ngành: Lịch Sử Truyền Khẩu & Cộng Đồng tại CSUF.; và Nhân Chủng Học tại Đại học Stanford, cô hiện đang hoàn tất chương trình tiến sĩ.
Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoạ - hiện có trên trang mạng: http//tuoihoahatnang.com.
Tác giả là cư dân châu Âu, làm việc trong một văn phòng thiết kế công chánh tại nước Pháp. Viết Về Nước Mỹ 2011, Đoàn Thị đã bay từ Paris sang dự họp mặt để nhận giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là Giải Á Hậu. Bài viết mới của cô là chuyện tình lửng lơ sau “cơn sóng thần 1975.”
Tác giả đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2001 với bài “Có Một Người Anh”. Viết Về Nước Mỹ 2005, cô là tác giả được tặng giải danh dự, với “Bài viết Không Tên Về Nước Mỹ”. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả sinh trong một gia đình gốc quân y VNCH, Năm 1988, khi 19 tuổi, mới định cư tại vùng Little Saigon theo diện bảo lãnh đoàn tụ. Sau 7 năm vừa làm vừa học, ông tốt nghiệp bác sĩ nha khoa, và hiện hành nghề tại Costa Mesa, Nam Cali. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2007, ông đã nhận giải danh dự năm 2008.
Tác giả tên thật là Nguyễn Tân, tuổi 60', cựu sĩ quan hải quân, cư dân Glendale, CA. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận giải và hiện là thành viên "Ban Tuyển Chọn Chung Kết" của Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là bài mới góp vui của ông.
Tác giả tên thật: Nông Phiên; Sinh năm 1965 tại Sài gòn. Giáo viên Sư phạm Kỹ Thuật. Công việc hiện tại: Electro-mechanic Technician. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Phi Yên là một tự sự linh hoạt về công việc lưu trữ ngũ cốc tại Mỹ, lần đầu được đề cập bởi người gốc Việt. Sau đây là bài viết mới nhất. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả có ba tập thơ song ngữ Anh-Việt đã xuất bản. Cô sinh tại Việt Nam năm 1975, định cư tại Hoa Kỳ từ 1994, khi đã 19 tuổi. Năm 2004-05, cô được cấp học bổng Fulbright, bậc tối ưu, để thực hiện nghiên cứu về người Việt tại Thụy Điển. Sau khi tốt nghiệp cao học hai ngành: Lịch Sử Truyền Khẩu & Cộng Đồng tại CSUF.; và Nhân Chủng Học tại Đại học Stanford, cô hiện đang hoàn tất chương trình tiến sĩ.
Tác giả sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Đến Mỹ tháng 4 năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, đang làm việc trong phân xưởng in của một nhà máy tại địa phương. Sau đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ ba của cô.
Tác giả sinh năm 1965, quê ở Phú Yên. Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Công việc đang làm: inspector và programer trong một hãng tiện cơ khí. Ngay từ bài viết về nước Mỹ đầu tiên trong năm 2012, “Chuyện Của Bill” tác giả đã cho thấy cách viết tinh tế và sống động hiếm có. Được biết, tuy cùng bút hiệu và cùng gửi từ Chicago, nhưng Nguyễn Văn 2012 không liên hệ tới tác giả Nguyễn Văn của năm Canh Thìn 2000, người viết bài “Dưới Mái Trường Senn.”
Nhạc sĩ Cung Tiến