Hôm nay,  

Mùa Đông Đầu Tiên Trên Miền Đất Hứa

1/4/200600:00:00(View: 111368)

Người viết: CÔ GIÁO KIM

Bài số 914-1514-238-vb5010506

*

Tác giả là cư dân Dallas, Texsas. Bài viết có thể bị thất lạc tiểu sử và địa chỉ. Mong bà bổ túc.

*

Trên cao tầng của bệnh viện Baylor, tôi nằm quấn mình trong chiếc drap trắng, thân thể đau nhừ nhưng vẫn cố nhìn ra song cửa kiếng. Bầu trời thật ảm đạm, mây xám chập chùng và tôi biết rằng bên ngoài cái rét đang cắt thịt, cắt da. Rồi bỗng dưng tôi cảm thấy có một chút gì sáng hơn. Tiếp theo là những vệt trăng trắng bay liệng, lúc đầu nhỏ, sau lớn dần và triền miên không dứt.

Thì ra là tuyết rơi, lần đầu tiên tôi thấy trong đời và cũng là lần đầu tiên tôi rời quê cha đất tổ sống kiếp lưu đày.

Sau gần hai năm ở các trại tỵ nạn Pulo Bidong Sungei Besi (Mã Lai Á) và Bataan (Philippinnes), tôi đã thực sự được nhận cho định cư tại Texas, Hoa Kỳ vào đầu mùa Đông năm 1987 này.

Là một giáo viên dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa nhưng sở dĩ tôi đã ở lâu tại trại tỵ nạn một phần vì tôi thiếu các loại giấy tờ cần bổ túc, phần khác do bệnh trạng của tôi, hậu quả của những năm tháng dài cơ cực sau khi mất nứơc, mất việc làm.

Thực ra, nói mất việc làm thì cũng không đúng lắm vì tôi có thể được lưu dụng nếu cố sống theo thời thế, nghĩa là biết dùng miệng lưỡi đẩy đưa, nói những gì được phép dù rằng những điều đó man trá và bịa đặt. Nhưng tôi chẳng muốn làm một thứ vẹt để kiếm những hạt bắp, hạt bo bo thừa thãi của kẻ thù, do đó đành phải chào thua, thua một cách tức tưởi như người lính chưa bắn một phát đạn nào đã có lệnh đầu hàng.

Bây giờ làm gì để sống đây" Lại còn thêm ông chồng "Cảnh sát ác ôn" thuộc loại "cải tạo mút mùa" mà mỗi lời mỗi chữ trong thư gởi về như những gai nhọn đâm xoáy vào tim óc tôi.

Góp nhặt một ít vốn liếng còn lại, tôi bắt đầu có mặt tại các chợ trời bằng các loại hàng nhà như áo quần, soong nồi, chén ly do chính đồng lương tiện tặn ngày trước tôi mua sắm được.

Là nghề giáo mà mua bán chợ trời thì ví như anh khờ xách tiền đi mua bầy le le trên ruộng, khi trả tiền xong thì bầy le le bay mất dạng.

Do đó số vốn của tôi dần dần cũng không còn nữa, mặc dù tôi đã tăng cường thêm cả bàn ghế, tủ giường và sau rốt là chiếc xe honda, tài sản cuối cùng của vợ chồng tôi. Có một điều tôi biết chắc là rất nhiều người đàn ông thuộc loại cán bộ mới thèm mua tôi một nụ cười, hay hơn thế nữa....nhưng tôi luôn luôn quyết liệt chối từ. Sau khi bán chiếc xe honda, tôi chuẩn bị một chuyến thăm nuôi chồng tôi đang bị khổ sai biệt xứ tại vùng Lào Cai thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt.

Với thân hình mảnh khảnh, ốm yếu, tôi phải tay xách, nách mang nhiều quà từ Sài Gòn, lặn lội biết bao nhiêu dặm đường bằng tất cả mọi phương tiện chuyên chở như xe lửa, xe thồ, xe trâu....thậm chí phải đi bộ hàng chục cây số, không kể lo liệu những thứ giấy tờ cần thiết, cuối cùng rồi cũng đến nơi.

Tại nhà thăm nuôi trại Phong Quang, Lào - Cay giữa mùa đông rét mướt, dù được thông báo chồng tôi đã ra đến nhưng tôi chỉ thấy trước mặt tôi là những bộ xương biết di động, không còn hình thù con người, mãi cho đến lúc nghe âm vang quen thuộc nào đó, tôi mới giật mình nhìn kỹ, nước mắt chảy như mưa, lòng đau vô ngần.

Trước đó, tôi được trại thông báo cho biết chồng tôi đã vi phạm nội quy (phát ngôn linh tinh, chống lại cách mạng,....) cho nên thời gian gặp người nhà chỉ được phép năm phút mà thôi. Chúng tôi chỉ kịp nói với nhau vài câu vô nghĩa, quên đầu quên đuôi, chỉ kịp chất bao quà hạn chế lên chiếc xe cải tiến là đã nghẹn ngào từ biệt nhau qua sự hối thúc của tên cán bộ Việt cộng hung hăng, tàn nhẫn.

Những con đường tôi đã đi qua, những nơi tôi đã đến tại miền Bắc, kể cả thủ đô Hà Nội Xã Hội chủ nghĩa, từng được đề cao và tuyện truyền rầm rộ tại miền Nam dẫy đầy tồi tệ và nghèo nàn của nó càng làm cho tôi chán nản cùng cực.

Sau chuyến thăm nuôi trở về hết tiền hết vốn, tôi làm bánh bán rong, thức khuya dậy sớm, khổ cực trăm bề. Hình ảnh cố giáo thướt tha dịu dàng ngày nào rồi cũng mờ đi theo quá khứ. Giờ đây tôi lam lũ giữa chợ đời, buồn vui theo từng giọt bột, lá rau; lo âu sợ hãi tùy theo mấy tên khờ khạo dốt nát của ban quản lý chợ.

Cuối năm 1984, được người quen làm tại công ty xí nghiệp Đường Cồn khuyến khích giới thiệu, tôi cố gắng vay mượn một số tiền và ký hợp đồng làm mứt tết theo quy định với nhiều điều khoản khó khăn.Tuy hàng giao nạp xong xuôi nhưng thiếu món hối lộ nên tôi đã hoàn toàn mất vốn, đồng thời bị truy tố về những tội gán ghép không đâu.

Tôi phải mang con trốn vào tận chốn đồng khô cỏ cháy, sống nhờ vào người em họ, suốt ngày chẳng thấy bóng một chiếc thuyền vãng lai vì nơi đó là con kinh cùng, màu nước phèn đặc, bốn mùa đục ngầu như máu, chảy như nước mắt của tôi không bao giờ khô cạn.

Một năm trôi qua trong bao nhiêu đắng cay tủi nhục của một người không còn hy vọng tìm thấy lại ánh sáng của cuộc đời. Tâm tánh tôi trở nên bất thường, dễ cáu giận và hay chấp nhất.

Tuy nhiên phép lạ lại đến khi chiếc ghe nhà tôi bất ngờ có mặt tại điểm hẹn của một chuyến vượt biên. Dù thân thể tàn tạ, tôi cố gắng hết mình bồng con nhập đoàn người ra khơi.

Chúng tôi vừa hồi hộp, vừa vui mừng lại vừa luyến thương những giây phút rời xa dãy đất hình chữ S. Bất ngờ trời đất nỗi cơn cuồng nộ, giông tố ầm ĩ khiến ghe không thể quay lại được nữa, nên đành phải tiếp tục cuộc hành trình ra khơi, phó mặc cho số mệnh cùng với những lời van cầu ơn trên tha thiết.

Những ngày hôm sau, chúng tôi liên tiếp chịu đựng hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, kể cả việc ghe bị hỏng máy, thiếu thức ăn, nước uống. Môi chúng tôi khô nứt nẻ và nước miếng hầu như quánh đặc trong cổ họng. Con tôi thì đã kiệt sức, rên ư ử không ra lời. Ban ngày bao nhiêu chiếc tàu lớn qua lại thật là lãnh đạm đối với những lời kêu cứu khẩn thiết của chúng tôi.

Về đêm, chúng tôi thật sự sợ hãi bởi những tiếng kêu rú gào thét khủng khiếp và rùng rợn của sóng biển, của âm hồn. Vào ngày thứ tư, máy ghe lại hư, ghe thả nổi, tài công tuyên bố bất lực, chúng tôi họp lại nhau, những người công giáo lần hạt mân côi chung lần cuối để chuẩn bị cái chết không thể tránh khỏi trước mắt, nhưng đột nhiên từ chân trời bỗng xuất hiện một tàu đánh cá cỡ lớn từ từ hướng về chúng tôi, đảo qua đảo lại vài vòng rồi đứng lại. Chúng tôi nhận ra vòng hoa vải và lá quốc kỳ trên tàu là của Thái Lan, mọi người đều hoảng hốt tột độ, nhưng không còn cách nào tránh né, tuy nhiên, những người trên tài không có vẻ gì hung hăng, họ hỏi han, chỉ đường cho chúng tôi chạy về hướng đất liền, đồng thời tiếp tế ít xăng dầu và nước uống.

Ba ngày đêm sau đó, chúng tôi lại nhờ những thuyền tàu đánh cá của Thái Lan, đặc biệt và lạ lùng, tiếp tế xăng dầu và nước uống cùng hướng dẫn đưa chúng tôi đến tận bờ biển Mã Lai an toàn.

Vừa bước chân lên đảo Bidong là tôi phải vào bệnh viện ngay. Cho đến mười tám tháng sau, ở những trại tỵ nạn được mệnh danh là "cổng trời tự do" nhưng tôi vẫn bị đối xử và nhìn thấy những cảnh bất công, bạo hành và dã man giữa người tỵ nạn và dân bản xứ, giữa dân tỵ nạn với nhau, khiến tôi càng trở nên chán nản, bi quan cho cuộc sống tương lai ở một nơi "trời mới đất mới" nào đó.

Mùa Đông năm nay đến bất ngờ và thật sớm tại Dallas nầy. Tuy nhiên, tôi hy vọng và chờ đợi ngày mai tuyết sẽ thôi rơi và giá băng cũng tự tan rã. Và tôi, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng cố gắng hết khả năng của mình, giáo dục và hướng dẫn đứa con yêu thương của tôi lần theo dấu vết ấy tìm trở về miền đất tổ quê cha.

Cô giáo Kim

Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 49,044,888
Thằng bé ngồi kế bên chị nó, đòng đưa hai chân trong đôi giày màu trắng có viền đen. Ngồi đối diện với hai chị em nó là người đàn ông có đôi vai gầy, đang chăm chú đọc tờ báo xếp làm đôi, tóc ông lòa xòa rơi xuống vầng trán có nếp nhăn li ti. Thằng bé đưa mắt nhìn đám trẻ tung tăng đùa giỡn trong khung lưới nhựa
Bản Quốc ca Việt Nam được mở đầu cho cuốn băng nhạc, những bản hùng ca thời chiến, mà tôi đã nghe đi nghe lại hơn mười lăm năm nay. Tôi thường tìm đến băng nhạc này mỗi khi lòng xôn xao nhớ về quê hương và những ngày xưa yêu dấu.   Trong lời ca điệu nhạc đầy hùng khí như vẫn còn vang dội những bước chân hiên ngang
Đã mấy lần tôi bỏ chúng ra khỏi túi hành trang chuẩn bị lên đường thì bà cụ lại lén chờ lúc tôi không có mặt bỏ chúng vào,   -hôm ấy là ngày 15 tháng 6 năm 1975, ngày chót theo lệnh trình diện lên đường đi tu huyền- tôi xách cái túi lên thì lại thấy đôi dép râu và bộ bà-ba đen đã nằm lại trong đó từ lúc nào. Bực quá tôi lấy chúng
Mỗi khi hạ về, ngày của Mẹ lại đến. Bất chợt, bâng khuâng, tôi bỗng thấy ganh tỵ với những ai còn được cài bông hồng trên áo!   Sự ganh tỵ ích kỷ, nhỏ nhoi nhưng thật khó tránh khỏi. Thế rồi mọi ký ức, kỷ niệm với Mẹ, về Mẹ lại ùa về vỡ òa từng rung cảm để tôi không thể không cầm viết.   Viết không hay, nhưng phải viết vì
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Nhạc sĩ Cung Tiến