Hôm nay,  

Mẹ Tôi, tuổi Canh Ngọ.

11/02/202200:00:00(Xem: 10217)

 

Hình-extra-4_Giám-Khảo-Lê-Tường-Vi-phát-giải-á-hậu-vinh-danh-tác-phẩm-cho-tác-giả-Lê-Xuân-Mỹ
Giám Khảo Lê Tường Vi phát giải á hậu vinh danh tác phẩm cho tác giả Lê Xuân Mỹ.

 

Lê Xuân Mỹ -  Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019 và giải Vinh Danh Tác Phẩm 2021. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông.

***

Cơn mưa nửa đêm làm tôi tỉnh giấc. Không gian thật im ắng. Mới hai giờ sáng. Nhìn lên màn hình camera phòng mẹ, trong cái ánh sáng mờ mờ, dáng mẹ nằm co ro, không nhúc nhích động đậy cũng chẳng nghe tiếng húng hắng ho hay tiếng trở mình như mọi đêm. Với một linh cảm không tốt, tôi choàng dậy rón rén xuống cầu thang, bước nhanh vào phòng mẹ. Dưới lớp chăn dày, mẹ nằm co quắp, khổ sở đến tội nghiệp. Đã bị nhắc nhở nhiều lần nhưng cái tật ngủ trùm mặt trùm đầu kín mít  vẫn không chịu bỏ. Vừa ngộp thở vừa xấu xí. Kéo nhẹ tấm chăn che, cúi thật sát mới nghe tiếng thở yếu ớt của mẹ, lúc đó tôi mới thật hoàn hồn. Cám ơn Trời Phật, mẹ vẫn còn đó với chúng tôi.

 

Ông bà mình hay nói, cứ nhìn hình dáng khi ngủ sẽ biết được cuộc đời của người đó sướng, khổ ra sao. Quả thật điều này quá đúng với mẹ tôi.

 

Mẹ tuổi Ngọ, Canh Ngọ. Mẹ vẫn thường nói, “Tau tuổi Canh Ngọ. Canh cô mồ quả, một đời cô độc, suốt đời như ngựa chạy lông bông”. Dù không tin vào tướng số, nhưng quả thật cuộc đời của mẹ là những chuỗi ngày vất vả ngược xuôi. Không chỉ trong những lúc nghèo khó, mà ngay cả khi có tiền, có của, có kẻ ăn người ở, ít khi nào mẹ thật sự an nhàn. 

 

Trong khi các bà chị có chồng vinh hiển, thì mẹ làm vợ một viên chức bưu điện nghèo. Ôn Mệ không bằng lòng nhưng Mẹ quyết chọn Ba dù mẹ biết cuộc đời chắc sẽ không bao giờ bình an, bằng phẳng như các chị. Nhưng Mẹ là vậy, từ nhỏ đã nổi tiếng là con bé thông minh, nhanh nhẹn, nhưng tính khí cứng cỏi như con trai. Muốn gì phải làm cho bằng được. Ngoại cứ hay nói “Cái con đầu cứng như mai cua.”

 

Nhưng có lẽ Mẹ đã không bao giờ ngờ rằng cuộc đời bà sẽ gian truân như thế. Mới sinh đứa con đầu lòng chưa đến mươi ngày là Ba nhận lệnh chuyển về ty Bưu Điện Đà Nẵng. Bồng đứa con còn đỏ hỏn, Mẹ theo Ba rời quê ngoại xuôi Nam. Và chuyến đi đầu tiên đó cũng chỉ là một chấm nhỏ khởi đầu quãng đường dài và truân chuyên của mẹ.

 

Từ khi làm vợ một công chức bưu điện bình thường đến khi trở thành phu nhân của một sĩ quan cảnh sát quyền uy của Vùng Một Miền Trung, Mẹ luôn là người nội trợ âm thầm sau lưng Ba. Ba an lòng lo việc nước, Mẹ lặng lẽ quán xuyến việc nhà, nuôi con.

 

Là một sĩ quan Cảnh Sát, Ba thường xuyên thay đổi nơi làm việc. Đà Nẵng, Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, rồi lại trở về Đà Nẵng... Với ba mỗi  lần thay đổi nhiệm sở, đơn giản chỉ như thay một  cái bàn, đổi một phòng làm việc, nhưng với Mẹ mỗi chuyến đi là một lần tay trắng, một lần xây dựng  lại nhà cửa từ con số không nhưng mẹ chưa một lần than van trách móc. Mẹ không học cao, không biết rộng, nhưng Mẹ thuộc lòng lời dặn dò của ngoại: “Lấy chồng thì phải theo chồng. Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo”. Và cứ như thế người đàn bà tuổi Canh Ngọ nhỏ nhắn nhưng cứng cỏi, kiên cường như con ngựa hoang, mang trên vai chín đứa con cùng Ba bôn ba trên khắp các tỉnh thành miền Trung.

 

Cho đến ngày mất nước, Ba bị đưa đi “học tập cải tạo” tận miền Bắc xa xôi, Mẹ một mình lặn lội thay chồng nuôi con. Lúc đó, Mẹ cô đơn nhưng không cô độc với bóng hình Ba luôn mãi trong tim. Mẹ buồn nhưng vẫn luôn tin vào một ngày gặp lại Ba. Với niềm hy vọng, những ngày vắng Ba, trong tháng năm đen tối, Mẹ đã làm đủ mọi nghề để sống, để nuôi con. Không việc gì Mẹ không làm. Buôn bán chợ trời, làm bánh, nuôi gà, nuôi heo… Mẹ vừa làm cha, vừa làm mẹ nuôi đàn con còn nhỏ dại với niềm mong ước về một cuộc trùng phùng.

 

Nhưng đó là một ngày không bao giờ đến. Chỉ chưa tròn 3 năm là Ba chết trong trại. Mẹ chỉ kịp được vuốt mắt Ba một lần duy nhất trước khi uất ức nhìn xác Ba vùi chôn sơ sài dưới vài thước đất trên miền biên giới phia Bắc xa xôi. Cái chữ “mồ quả” đã vận vào đời mẹ. Mẹ mất chồng vào tuổi năm mươi. Và từ đó Mẹ thật sự sống hiu quạnh như con ngựa lạc bầy.

 

Trong nỗi uất ức, trong nỗi đau mất chồng, trong niềm thù hận, có một thời Mẹ đã nổi cơn điên loạn. Có một thời Mẹ muốn chết theo ba. Nhưng rồi dù có phải bao đêm lặng lẽ khóc một mình, Mẹ vẫn phải nén đau thương, sống tiếp. Cũng chỉ  vì những đứa con, những giọt máu còn để lại của một mối tình mấy mươi năm. Khó có thể kể hết những nỗi đớn đau, nhọc nhằn, tủi nhục, đắng cay của một người vợ có chồng là sĩ quan cảnh sát chết trong trại cải tạo trong những tháng ngày nước mất nhà tan. Từ ngày ba chết năm 1979 đến ngày ra đi định cư ở Mỹ năm 1991, chỉ là mười hai năm, nhưng với mẹ là một quãng thời gian quá dài.

 

Giữa năm 1991, mẹ cùng sáu con qua Mỹ theo diện đoàn tụ. Mẹ đã làm được điều từng hứa ngày vuốt mắt vĩnh biệt ba. Chưa trọn vẹn khi đứa con đầu lòng còn kẹt lại, nhưng vẫn là những ngày thật vui.

 

Khởi đầu một  cuộc sống mới, dù là trên một đất nước giàu có và tự do, không bao giờ là chuyện dễ dàng, nhất là với một gia đình đông con như mẹ. Với người già như mẹ thì không quá khó khăn. Mẹ được cấp một căn apartment một phòng ngủ và  mỗi tháng vài trăm đồng. Cho riêng mẹ như vậy cũng đã quá đủ so với những ngày chạy gạo từng bữa ở quê nhà. Chúng tôi nói mẹ nên nghỉ ngơi vì đã sống một đời gian khổ rồi.

 

Nhưng các con còn long đong, mẹ sao có thể ngồi yên. Nhìn các con chạy ngược chạy xuôi tìm việc, mẹ xót lắm. Đứa đi bưng phở, đứa làm assembler, đứa làm ở chợ. Lương chỉ vài đồng một giờ. Ăn còn chưa đủ nói chi ở.  Mấy đứa con trai ở tạm nhà người bà con. Mấy đứa con gái ở chung với Mẹ trong căn apartment nhỏ xíu.  Mẹ muốn có tiền phụ thêm cho con. Trên sáu mươi, tiếng Anh tiếng U không rành, không biết làm gì ngoài chuyện nấu nướng, thế là bà nấu đồ ăn Việt Nam. Mới đầu nấu cho các con, sau cho các đứa cháu, cuối cùng nhận nấu cơm tháng cho người quen. Mấy đứa con thay phiên đi giao cơm. Cũng được một thời gian, thức khuya dậy sớm, cực nhưng vui. Có đồng ra đồng vào. Thêm cho mỗi đứa vài chục, vài trăm tuy không nhiều  nhưng lòng bà rất vui.  Nhưng rồi dần về sau, người đặt hàng càng ngày càng ít. Tiền lời không bao nhiêu, có khi còn lỗ công.  

 

Các em tôi qua San Jose vào những năm đầu của thập niên 90, không chỉ vùng Thung Lũng Silicon mà toàn California đang ở thời  kinh tế đi xuống. Công ăn việc làm ít ỏi, qua trước tìm được việc còn không có, huống chi những người qua sau. Ngày làm ngày nghỉ. Thế là các em di chuyển về các tiểu bang miền Đông xa xôi. Đứa về Oklahoma ở với chị đầu, đứa về Dallas với anh trai kế, là hai người vượt biên qua trước. Chỉ còn gái út ở lại San Jose với Mẹ. Cứ mỗi đứa ra đi, lòng bà thêm quặn đau. Lại khóc, lại trách móc giận hờn. Cứ nghĩ qua đây là mẹ con quây quần, là gia đình đoàn tụ. Có cháo ăn cháo, có rau ăn rau. Với Mẹ hạnh phúc chỉ giản đơn như thế. Mẹ hờn dỗi, “Biết qua đây, mỗi đứa một nơi như vậy thà tau ở lại với Cộng Sản còn hơn”, “Số tau canh cô, mồ quả,  ba bây bỏ tau mà đi, bây giờ tụi bây cũng bỏ đi, tau còn sống để làm gì”. Nhưng có xót xa, có bịn rịn, cũng không thay đổi được gì. Xa mẹ lòng rất đau nhưng cũng đành phải xa thôi. Cuộc sống trên quê người đâu như thời xưa của ba mẹ. Đâu còn cái thời lấy vợ lấy chồng bao nhiêu thì cả cháu chắt cũng về sống chung. Thời của Mẹ đã qua rồi, Mẹ ơi.

 

Mẹ gắng gượng trụ lại Cali một thời gian rồi cũng khăn gói cùng gái Út về miền Tulsa, Oklahoma. Sẽ không còn nắng ấm Cali, sẽ không còn cái náo nhiệt của những khu Việt Nam sầm uất Tully, Senter, Story... Biết là sẽ phải trải qua những ngày hè nắng gắt, những đêm lạnh mùa đông, những cơn mưa tuyết rơi trơn trợt và cả những cơn lốc xoáy chết người, nhưng bà không quan tâm. Nơi nào có con có cháu, nơi đó là Thiên Đường.

 

Tusla đất rộng người thưa, thành phố hiền hoà và nguồn trợ cấp của chính phủ của tiểu bang dồi dào hơn Cali rất nhiều. Mẹ được cấp môt căn appartment hai phòng tuy nhỏ nhưng sạch sẽ khang trang trong khu Meadow dành cho người lợi tức thấp. Tháng được trợ cấp thêm vài trăm, cũng tạm đủ  cho hai mẹ con. Bà cứ luôn khấn cầu ba phù hộ có ngày nào đó, sẽ được gặp lại đầy đủ ngũ long công chúa và tứ quý của bà thì dù có tổn thọ thêm bao nhiêu năm cũng không sao.

 

 Không nhiều người Việt Nam như Cali nhưng nơi bà ở có nhiều gia đình Việt Nam và châu Á. Cộng đồng nhỏ nên hầu như mọi người đều quen biết nhau. Mỗi sáng mấy ông mấy bà kéo nhau ra khu chợ Alberson hút thuốc, chơi cờ, chiều tụm năm tụm ba tại sân chơi vừa chăm cháu vừa nhắc chuyện xưa. Cũng đỡ nhớ nhà, bớt nhớ quê hương.

 

Các em tôi lần lượt được đi học và đi làm. Đứa làm hãng máy bay, đứa làm xưởng may mặc. Cô Út vừa đi học , vừa làm thêm ở chợ. Cuộc sống dần ổn định. Ở xứ Mỹ này, nhất là trên cái thành phố mà nhà thờ ở khắp các ngã tư đường (tụi tôi hay gọi đùa là cái xứ nhà thờ nhiều hơn nhà dân), làm giàu thì khó chứ sống bình thường lương thiện thì quá dễ dàng. Mẹ đã qua những ngày bình yên như thế.

 

Nhưng ẩn sâu dưới cái bề ngoài an vui là những nhớ thương sầu muộn. Mẹ cứng cõi nhưng có trái tim đa sầu đa cảm, rất dễ xúc động. Bà con đến thăm, gặp nhau cũng khóc, chia tay ra về cũng khóc. Mẹ nhớ làng nhớ xóm, nhớ chồng quạnh hiu trong nấm mộ sau vườn, nhớ vợ chồng đứa con đầu lòng và những đứa cháu nội còn kẹt lại bên kia bờ đại dương. Đã có rất nhiều đêm bà không ngủ, nhìn khoảng sân vắng lặng trước nhà, kí ức về những ngày tháng cũ cứ lần lượt trôi về trong tâm trí. Bà cứ nhớ mãi cái ngày gặp chồng lần cuối cùng, hay lần cùng con trai lớn nửa đêm lặn lội lén cải mộ chồng. Nhớ cái ngày hai mẹ con co ro dựa cột đèn sân ga Hàng Cỏ, ôm khư khư hai bị lác chứa bộ xương chưa kịp khô của chồng. Nhớ, nhớ nhiều lắm những kỹ niệm thuở xa xưa. Càng rảnh rỗi, nỗi nhớ càng quắt quay, càng ray rứt.

 

Có lẽ Trời thương Phật độ và Ba phù hộ, cuối cùng sau những tháng năm chờ đợi, đứa con trai đầu của Mẹ cũng được chấp thuận cho qua Mỹ theo diện đoàn tụ ODP. Cuối năm 1998, trong cái giá buốt của mùa đông xứ người, máy bay chở gia đình nhỏ của chúng tôi đáp xuống phi trường Tulsa. Đầy đủ anh em cháu chắt đã chờ sẵn ở lối ra. Đại gia đình một mẹ chín con đoàn tụ. Một mùa Giáng Sinh đáng nhớ và hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Mẹ. Một người mẹ đơn thân có chồng chết trong trại cải tạo, sau bao nhiêu gian truân vất vã, cuối cùng cũng đem được toàn vẹn các con sang được bến bờ tự do. Ôm con, ôm cháu mẹ đã khóc  như mưa. Khóc vì hạnh phúc và khóc vì nhớ ba.

 

Những ngày sau đó mẹ vui như chưa từng bao giờ được vui. Bấy giờ các con đều đã lập gia đình và có nhà riêng. Đứa nào cũng muốn đem mẹ về sống chung nhưng mẹ cương quyết từ chối. Mẹ muốn ở một mình trong căn nhà do chính phủ cấp. Mẹ nói, “nhà tau tau ở, tự do muốn làm gì thì làm. Ở với tụi bây, chồng con bây nói nặng nói nhẹ, thế nào cũng sinh chuyện”.

 

Cũng đúng thôi, ở một mình, bà tha hồ nấu nướng. Bà chưa quen đồ Mỹ đồ Tây bên này. Nhà mới, bếp mới mà chơi luôn nồi bún mắm thì mấy thằng rể không cằn nhằn mới là chuyện lạ. Lại thêm bà quen với chuyện cúng bái, đứa con nào chịu cho bà lập nguyên cái bàn thờ gia tiên to đùng ngay giữa phòng khách.  Cũng nhờ vậy thời gian mới qua, vợ chồng tôi về ở chung với bà. Qua trễ cũng có nhiều cái hay. Với sự gíup đỡ  và hướng dẫn của nhiều người qua trước, của hội đoàn, của nhà thờ, chúng tôi hoà nhập rất nhanh vào cuộc sống quê người.

 

Hai năm tôi ở Tulsa  là hai năm hạnh phúc nhất của mẹ. Mẹ đã không còn là con ngựa già cô đơn mà là mẹ gà vĩ đại bên bầy con trưởng thành. Đáng được an vui, nhàn hạ, nhưng Mẹ vẫn không chịu ngồi yên. Từ lúc có thêm chúng tôi, suốt ngày Mẹ bận rộn trong bếp. Khi thì phở, hủ tiếu, khi thì cơm tấm, khi thì cơm đủ ba món canh, mặn, xào. Mẹ cứ sợ chúng tôi mới qua chưa quen đồ ăn xứ người. Không những nấu cho riêng vợ chồng  tôi mà cho cả  gia đình mấy đứa em gái. Mẹ bắt phải đến lấy đem về ăn mỗi ngày. Không đến là mẹ giận. Như ngày xưa, đố đứa nào dám cãi. Cứ cuối tuần, làm gì thì làm, con cái cháu chắt nội ngoại phải tập trung về căn nhỏ của bà. Với mẹ, anh em vui vẻ hoà thuận, thương yêu nhau là ưu tiên một. Con cái hiếu đễ là niềm kiêu hãnh không bến bờ của mẹ

 

Nhưng rồi những ngày vui rồi cũng qua. Cuộc sống xứ người không như mẹ mong muốn. Giữa năm 2000, tôi xin được việc làm tại Kla-Tencor, San Jose. Một công ty chuyên làm máy test silicon wafer lớn nhất nhì Hoa Kỳ. Một cơ hội chỉ đến một lần trong đời của một kỹ sư năm mươi tuổi mới vừa định cư. Cơ hội đến, không thể không nắm. Tôi háo hức chuẩn bị cho một chuyến đi lập nhiệp, nhưng Mẹ buồn, rất buồn.

 

Nghĩ đến cái cảnh phải xa tôi và ba đứa cháu nội là bà khóc. Tôi chưa đi mà ngày nào bà cũng hết ngồi  lặng lẽ, lại thẫn thờ đi ra đi vào. Bỏ ăn,bỏ ngủ, thở ngắn than dài.

“Cứ tưởng đem vợ chồng bây qua là để đoàn tụ với mẹ với em. Bây đi thì tao sống với ai.” 

“Thì còn bốn đứa con gái với mấy đứa cháu ngoại, con đi rồi thỉnh thoảng con về thăm Mạ.”

”Nhưng ở đây có nghèo đói chi mô mà bây phải đi!”

“Dạ con đi đâu phải chỉ vì tiền.”

“Vậy thì đi làm chi cho cực cho khổ!”

Rứa đó, giải thích phân trần cách mấy thì Mẹ cũng gạt ngang. Mẹ không hiểu hay cố tình không hiểu. Tôi biết Mẹ giận lắm.

Giận rồi khóc, rồi kể lể, “Số tau là số canh cô mồ quả. Chồng bỏ đi rồi con cũng bỏ đi.”

“Thì còn mấy đứa ở đây với mạ mà!”

“Mấy đứa khác, mi khác!”

 

Nhìn bà khóc, lại nhớ đến những giọt nước mắt tiễn ba ngày  nào ở trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú, lòng tôi lại chùng xuống. Cũng quá tội cho Mẹ. Cứ vậy chần chờ mất cả tuần mấy anh em mới dỗ dành được mẹ bằng lòng cho đi nhưng không quên dặn dò, “Nhớ mỗi tháng dẫn cháu về thăm mẹ.“ Cũng chỉ biết dạ đại cho xong.

 

Rồi cuộc sống không có tôi bên cạnh của mẹ cũng vẫn tiếp tục như lúc  tôi chưa qua Mỹ. Mẹ vẫn sống một mình trong căn nhà nhỏ khu Meadow . Mấy em thay phiên nhau hằng ngày ghé thăm mẹ. Ngày tôi đi San Jose mẹ vừa đúng tuổi bảy mươi,“Thất thập cổ lai hi.”

 

Cuộc sống cứ thế trôi qua bình an được khoảng năm năm.  Cho đến một ngày, Mẹ đi chợ và quên đường trở về nhà. Và kể từ lần đó lâu lâu bà lại bỏ nhà đi rồi lại quên trở về. Mới đầu cả tháng mới bị một lần, sau đó vài tuần lại đi lạc một lần.  Bà vốn rất sạch sẽ, nhưng nhà bắt đầu có gián có chuột.  Đồ  ăn thừa, chén bát chưa rửa, để lung tung khắp nhà. Khi thì ở phòng khách khi thì dưới giường ngủ, có khi ngay cả trong cầu tiêu. Thấy không ổn, đi khám, bác sĩ phán. “Bà có triệu chứng của bệnh Alzeithmer. Đề nghị với mấy chị đem bà về ở chung, không thể ở một mình.“

 

Thế là trả nhà lại cho chính phủ, bà về sống với đứa con gái đầu. Ngày đem bà đi cũng nhiêu khê, “trần ai khoai củ“ lắm. Khuyên lơn, giải thích cách mấy  bà cũng không chịu đi. Nói chính phủ lấy nhà không cho mạ ở một mình, bà càng nổi cáu, “Tau có chi mô. Nhà tau, tau ở, thằng nào con nào dám đuổi đi, tau đánh bể đầu!” Cả cái thái độ dữ dằn cũng bất bình thường.

 

Mẹ sống yên ổn với gia đình con gái đầu được một thời gian. Căn bệnh mất trí nhớ làm tính tình Mẹ thay đổi. Dễ giận, dễ hờn. Khi vui khi buồn. Lúc thì rất hiền, ai làm chi cũng được, lúc thì dữ dằn, gặp đâu la đó. Lâu lâu lại mở cửa bỏ nhà ra đi. Lại đi kiếm, tìm được về, rồi sau vài ngày lại bỏ nhà ra đi.

 

Mấy đứa cháu ngoại đẻ bên này, đâu có kiên nhẫn ngồi bên chuyện trò  hay chăm sóc ngoại như những đứa cháu bên Việt Nam. Gặp bà nhiều nhất là “Hello” hay “big hug”rồi  thôi. Mẹ thì hở một tí lại tủi thân, “Tụi bây cho tau ở, coi tau không ra gì, thôi tau về ngoại.” Riết rồi con gái  cũng chịu hết xiết. Thế là bà về ở với cô con gái kế. Rồi chuyện cũ lập lại. Cứ như thế mẹ hết ở đứa này  sang đưa khác. Đứa tròn năm, đứa vài tháng, một vòng ở đủ khắp các con. Cuối cùng đứa nào cũng than phiền, “Mạ khó quá, tụi em không thể săn sóc mạ được nữa, anh là anh cả tính sao thì tính, tháng sau tụi em sẽ gửi mạ lên ở  với anh.” Thật đúng với câu:“ Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.”

 

Thế là từ cuối năm 2008 mẹ quay lại San Jose  sống cùng chúng tôi. Bấy giờ hai đứa con lớn đã đi làm, thằng nhỏ còn đi học, gia đinh ba thế hệ, sáu người cùng sống trong một căn townhouse nhỏ. Hai vợ chồng một phòng, con gái một phòng, mẹ một phòng dưới lầu, hai thằng con trai chiếm hai ghế sofa. Cũng tạm ổn. Chỉ có điều bất tiện cho Mẹ là mỗi lần tiêu tiểu Mẹ phải lên tận lầu hai. May mà ở tuồi gần tám mươi, tiểu đường, cao máu cao mỡ, khi nhớ, khi quên nhưng Mẹ đi đứng vẫn còn cứng cáp. Cuộc sống có thêm khó khăn nhưng rồi cũng xoay sở được. Cũng may là các em đem Mẹ lên San Jose lúc tôi đang nằm nhà dưỡng bệnh sau một tai nạn tại sở làm, chứ nếu như bình thường phải đi làm không biết ai ở nhà với bà. Trong rủi có may. Nằm nhà vừa dưỡng bệnh vừa có thời gian chăm sóc Mẹ.

 

Mọi chuyện cứ trôi qua như có sự sắp đặt của Trời Phật, như có  sự phù hộ của Ba.  Mẹ xin được tiền già, ngoài Medicare mẹ còn xin được Medical. Và thật may mắn chúng tôi gặp được một bác sĩ gia đình vô cùng nhân hậu, tận tâm,và là một ân nhân của gia đình chúng tôi, bác sĩ Nicole Thái. Gặp bà cũng là một cơ duyên. Nghe bạn bè giới thiệu, gọi điện thoại xin lấy hẹn khám cho mẹ, nhưng văn phòng không nhận thêm bệnh nhân mới. Hôm đó Mẹ ho, chở đại bà lên văn phòng xin gặp bác sĩ  trực tiếp năn nỉ. Lúc đó tôi mới vừa mổ vai, tay phải còn đang phải giữ bằng sợi dây thòng từ cổ, tay trái dắt một bà già móm mém bước vào văn phòng đúng lúc bác sĩ khám xong một bệnh nhân. Nghe chuyện của bà goá phụ nhiều con, cảm động gia cảnh của hai mẹ con, bà nhận lời làm bác sĩ gia đình cho Mẹ.  

 

Qua sự  giới thiệu của bà, Mẹ có  thêm  được sự chữa trị của các bác sĩ chuyên ngành khác nhau. Một bác sĩ chuyên về thận, một chuyên về tiểu đường, một chuyên về phổi và một chuyên khoa thần kinh Alzeithmer. Không tốn một đồng xu. Không biết ở các nước khác như thế nào, nhưng với những người như Mẹ, nước Mỹ thiệt đúng là Thiên Đường. Cùng với sự chăm sóc tận tâm của các bác sĩ, khí hậu của vùng thung lũng góp phần làm sức khoẻ mẹ tốt hơn. Qua chứng nhận của bác sĩ, Mẹ được sở an ninh xã hội cho hưởng chương trình IHSS (In-Home  Supportive Services), chương trình chăm sóc tại nhà cho người có bệnh. Nhất là những bệnh nhân Alzeithmer như mẹ. Chúng tôi có với nhau những ngày tháng yên bình. Bệnh Alzeithmer làm Mẹ quên nhiều, nhưng nhờ vậy Mẹ quên luôn nỗi cô đơn xa con xa cháu và nỗi buồn xa xứ, xa ba.

 

Thời gian cứ trôi, thấm thoắt mẹ cũng ở với tôi trên mười năm. Vui có, buồn có, vất vả có. Không ít lần mẹ phải đi cấp cứu, nằm viện. Có lần té gãy xương chân, phải giải phẫu. Có lần đường xuống thấp, mê man tưởng chết nhưng rồi mẹ cũng vượt qua. Không phải nước Mỹ cái gì cũng tốt cũng đẹp, nhưng nếu Mẹ không qua Mỹ chắc chắn Mẹ đã chết từ lâu.

 

Tai nạn tại hãng tưởng chừng là một nỗi bất hạnh, lại là cái may mắn cho tôi và cho Mẹ. Sau khi mổ, sức khoẻ tôi dần dần hồi phục nhưng khả năng làm việc đã không còn như xưa. Những cơn đau vẫn còn dai dẵng. Không làm được việc nặng, công ty không bố trí được việc làm thích hợp, thế là  tôi tiếp tục lãnh tiền trợ cấp tàn phế cho đến ngày về hưu. Không đi làm, tôi càng có nhiều thời gian sống bên Mẹ.

 

Nhưng rồi dù có cố gắng đến mấy thì theo thời gian, bệnh của Mẹ trở nên xấu hơn. Từ đầu mùa dịch Covid 2019, sức khoẻ mẹ kém đi thấy rõ. Đi đứng chậm chạp, ăn cũng ít đi. Những lần ra sân quét lá cũng thưa dần. Càng ngày càng ít nói. Không vui, không buồn, không giận, không hờn. Mẹ hay ngồi một mình trầm ngâm lặng lẽ. Ngày xưa mỗi lần có người đến thăm dù quen hay lạ, Mẹ cũng tay bắt mặt mừng, nói chuyện xưa cả giờ không dứt. Bây giờ con cháu đến thăm cũng chỉ  năm ba câu rồi lại chìm đắm trong cái thế giới  của riêng bà. Thế giới của bà chắc là chứa đầy hình bóng của Ba, của Ôn Bà Ngoại, của các bà chị một thời rất xa xưa. Một thế giới không có con Covid, không có khổ đau. Dửng dưng với mọi chuyện, bà đi ra đi vào, hết ăn rồi ngủ. Biểu uống thuốc thì uống, biểu chích thì chích, thay áo thì thay, tắm thì tắm. Không biết đói, không biết no.

 

Nhưng nếu cứ như vậy hoài thì cũng khoẻ cho mẹ. Dạo gần đây bà bắt đầu có những triệu chứng của bệnh tâm thần. Bà hay thức dậy nửa đêm, lẩm bẩm nói chuyện một mình. Nhiều khi liên tiếp cả hai ba đêm thức trắng. Có những đêm bà trở thành như môt người hoàn toàn khác! Bà dựng đứng nguyên cái nệm giường cỡ queen to đùng, rồi kéo lê nệm qua che kín cái cửa sổ, mặt thì ngây dại, nói năng lảm nhảm, rồi lăn ra ngủ trên sàn nhà. Hôm sau trở lại bình thường như không có gì xảy ra. Còn bảo đứa nào hôm qua lấy mất cái nệm trong phòng tau.

 

Đi khám, bác sĩ bảo, đó là triêu chứng của bệnh Alzeithmer đang trở nặng. Mẹ bị tâm thần phân liệt, có hai nhân cách trong một con người. Chỉ biết và phải chịu vậy thôi, chứ  y học cũng bó tay. Mà không sao giải thích được bình thường bà yếu như sên, khi lên cơn mạnh như trai mười tám. Bệnh này ngày xưa ở Việt Nam thì ông bà mình nói là ma nhập. Có lần mới hai ba giờ sáng, Mẹ ra phòng khách kéo luôn cái sofa chận cửa ra vào. Rồi nằm vắt trên ghế, ngủ ngon, ngủ lành. Phải hai vợ chồng mới nhấc bà lên giường được. Mới đầu thì lâu lâu một lần, bây giờ thì hầu như một, hai tuần là bà trở thành một người khác. Những lúc như vậy Mẹ trở nên dữ dằn. Có lúc đòi mở cửa đi về thăm Ôn Mệ, có khi mở tủ lạnh lôi hết thịt cá ra ngoài. Không cho là la hét.

 

Trong nhà trở nên ngột ngạt, kém vui. Cuộc sống lúc nào cũng căng như dây đàn. Không đi đâu được đã đành, nhiều đêm chúng tôi mất ngủ theo bà. Bác sĩ bảo, “Ông bà cũng nên tính chuyện đưa cụ vô viện dưỡng lão chứ kéo dài chưa chắc đã tốt cho cụ và cho cả ông bà nữa.”

 

Mấy đứa con cũng góp ý,“hay thôi Ba Mẹ sắp xếp đưa Nội vào viện, có y tá chăm sóc, thuốc men đầy đủ và an toàn hơn. Ba mẹ cũng đã trên bảy mươi, già rồi, sao tụi con thấy cực quá. Coi chừng bà nội chưa điên mà Ba Mẹ điên trước”.

 

 Những suy nghĩ cứ luẩn quẩn trong đầu. Nhiều lúc muốn buông tay, nhưng mỗi lần nhìn thấy cái dáng ngồi cô đơn lặng lẽ, cái tướng nằm ngủ co quắp nghèo khổ tội nghiệp, nghĩ đến cuộc đời chín mươi mấy năm qua của Mẹ, người đàn bà tuổi Ngọ Canh cô, lòng tôi lại nhói lên niềm thương cảm, không nỡ rời xa. Như mọi khi, vợ tôi luôn bằng lòng với quyết định của tôi. Thật cám ơn em, đã theo anh suốt một quãng đường dài với bao nhiêu gập ghềnh, chông gai trắc trở.

 

Và cứ thế… ngày qua ngày … chúng tôi lại an ủi nhau, cùng nhau săn sóc mẹ dù phải đối diện với nhiều khó khăn hơn khi năm tháng chất chồng thêm tuổi.

 

Thời gian thấm thoát thoi đưa. Những tia nắng ấm bắt đầu xua tan cái lạnh mùa Đông, đất trời như được thay áo, rộn ràng đón một mùa Xuân mới.

 

Năm cũ sắp qua và Tết lại đến. Mẹ thêm một tuổi, sức  già càng chông chênh. Tôi lại nhớ bài hát “ Mỗi mùa Xuân qua Mẹ tôi già thêm một tuổi. Mỗi mùa Xuân qua, ngày tôi xa mẹ càng gần”. Dù biết như thế tôi vẫn thấy nhẹ vui khi: “mỗi mùa Xuân đến, tôi mừng tuổi Mẹ”. Chợt thấy mắt cay cay, tôi ôm Mẹ thật chặt, thì thầm “ Mạ ơi con thương Mạ lắm”.

 

Ngoài kia, pháo chưa nổ nhưng cây lá đang đâm chồi ra hoa, thơm ngát một góc vườn.

 

Lê Xuân Mỹ

San Jose mùa Covid tháng giêng năm 2022.

Ý kiến bạn đọc
20/07/202314:53:04
Khách
Bài viết rất hay va đầy xúc động về một người đàn bà Việt Nam qua bao biến cố trên quê nha va trên xứ người
Cám on tác giả va cau chúc gia đinh thật an vui và may mắn
28/06/202302:48:57
Khách
Ba me con toc bac nhu nhau. Thuong qua chu oi. Mong gap chu som 🤩.
26/04/202321:51:55
Khách
Một bài viết quá hay và vô cùng cảm động về cuộc đời của một người mẹ Việt Nam, thay chồng nuôi 9 người con nên người. Hạnh phúc khi cuối đời van duoc ở bên con hiền và dâu thảo
Chúc tác giả va gia đình an vui
25/04/202323:30:25
Khách
Văn của Lê Xuân Mỹ thật nhẹ nhàng nhưng chân thật và làm xúc động người đọc . Một bài viết về thân phận một người đàn bà mất chồng sau ngày 30/4/1975 gợi nhớ một khoảng thời gian không dễ gì quên được . Cám on tác giả
25/04/202322:07:55
Khách
Bài viết thật hay và cảm động. Tác giả có một tấm lòng hieu thảo với Mẹ, một tấm gương sáng để mọi người noi theo. Cảm ơn tác giả về bài viết ý nghĩa này.
23/04/202322:46:39
Khách
Một trong những bài viết thật hay về Mẹ trong mục VVNM của Việt Báo. Cám ơn tác giả Lê Xuân Mỹ
23/04/202317:14:30
Khách
Bài viết hay, cảm động và chân thật về thân phận của một người đàn bà Việt Nam qua bao thăng trầm của đất nước. Mong an lành đến cho gia đinh tác giả
21/04/202323:26:17
Khách
Xin cám ơn cac anh chi, cac bạn đã đọc và góp ý. Những ý kiến đóng góp của các anh chị, các bạn là niềm khích lệ cho những người viết chúng tôi. Mong anh chị, các bạn that an lành và nhiều niềm vui trong cuộc sống
21/04/202322:58:42
Khách
Đọc câu chuyện thật của Lê Xuân Mỹ trong một xã hội Mỹ tân tiến với bao nhiêu bận rộn của cuộc sống mới nhận ra rằng tác giả (và người phối ngẫu) là một tiêu biểu hiếm hoi của người con Việt đã và tiếp tục chăm sóc người mẹ đang gặp phải chứng Alzheimer tại chính nhà của tác giả. Ngòi bút của Lê Xuân Mỹ đã diễn đạt được hầu hết mọi thứ mọi tiến trình mà một người mang chứng (bịnh) này đang gặp phải; và người chăm sóc - chính tác giả và người phối ngẫu - đang tận tụy hy sinh thời gian, sức lực và tâm lý để đương đầu với người mẹ đang mang chứng bịnh chưa có thuốc chữa này. Lời văn, bố cục, cấu kết từng giai đoạn của bài văn, một câu chuyệt thật, rất xứng đáng là tác giả đứng đầu trong bảng sắp hạng cuộc thi có giải thưởng - Viết Về Nước Mỹ 2023 - do Việt Báo tổ chức hằng năm. Chúc Lê Xuân Mỹ gặp nhiều may mắn.
20/04/202317:52:57
Khách
Chẳng biết viết gì ngoài việc cám ơn Mỹ đã bỏ công sức để viết một đoãn văn thật đầy tình cảm về mẹ của mình
Cám ơn Mỹ thật nhiều
Tám Thi
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 537,985
Tháng 4 luôn nhắc nhớ, chúng ta từ đâu đến đây, chúng ta may mắn hơn người còn ở lại VN, hạnh phúc hơn người bỏ xác trên biển, hãy sống xứng đáng với cái giá chúng ta phải trả mới có ngày hôm nay. Hãy tôn trọng và nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình chúng ta, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI đã đón nhận và giúp đỡ chúng ta, nơi đây là điểm dừng cuối đời của chúng ta và là Quê Hương thật sự của con cháu chúng ta.
Nhập ngũ vào Thủ Đức sau biến cố Mậu Thân 1968 khi đang theo học năm thứ hai Cao Học Sử Địa tại Văn Khoa Saigon, anh được chọn vào Không Quân, và có lẽ do bản chất yêu thích văn nghệ với sở trường ca hát và đờn địch, anh vào làm việc trong ban Tâm Lý Chiến của Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa, đi từ cấp bậc Chuẩn Úy cho đến Đại Úy. Đầu năm 1975, anh lấy vợ, một nữ quân nhân phục vụ trong phòng Xã Hội cũng tại sư đoàn 3 Không Quân. Vợ chồng anh ở trong trại sĩ quan của đơn vị cho đến ngày mất nước. Khi anh vào tù, chị trở về quê sống với cha mẹ chị gần Cần Thơ.
Phải nhìn nhận rằng Lão là con người hiền lành, rất hiền lành! Nói theo kiểu người mình hay nói là hiền như cục đất! Lão hiền từ trong nhà ra tới ngoài đường. Chưa bao giờ lão lớn tiếng, hay nói những lời nóng nảy, cộc cằn với bất cứ ai! Cái tâm lão cũng vô cùng là hiền, hiền cả với cây cỏ, với thú vật! Lân la ngoài vườn nhiều khi thấy ớt con hoặc é quế mọc nhiều quá, mụ vợ nhổ quăng bớt. Nếu thấy được lão nhặt chúng đem đi chỗ khác trồng! Mụ kền rền, lão bảo: “Chúng nó cũng muốn sống mà!” Bất cứ con bọ nào bất chợt lọt vào trong nhà là lão túm lấy mở cửa quăng ra ngoài, vừa quăng lão vừa nói: - Đi về nhà mày đi, ở đây lâu là có cơ hội xuống ống cống đấy! Ý lão ám chỉ mụ! Mụ ghét nhất bất cứ con gì chui vào nhà, trông thấy là mụ quăng ngay vào bồn cầu, giật nước mất tích luôn!
Hôm nay trời trong, nắng vàng rực rỡ nhưng lạnh. Hàn thử biểu cho thấy buổi sáng 47độ và trưa được 54 độ F. Vào buổi chiều 16 giờ khí tượng cho biết sẽ có mưa. Từ hôm qua các con đã khuyến khích tôi đi xem hoa đào vì sợ sau cơn mưa, phần lớn hoa sẽ rơi rụng, tơi tả không còn đẹp nữa. Qua video người bạn gửi cho xem thấy hoa đào ở Tidal Basin thủ đô Hoa Thinh Đốn đã nở rộ.
Với Hai Búng thì có nhiều chuyện để nói. Tên trên giấy tờ là Phạm Bình Nhâm, nhưng từ khi vào quân đội, ban bè cùng khóa đặt cho hắn cái tên mới là Búng - Hai Búng. Sở dĩ hắn mang cái biệt danh (nickname) này vì nhà hắn gần chợ Búng mà khi nhắc đến chợ Búng, hắn say sưa nói miết - quên thôi! Hắn tả cảnh, tả tình về quê hương của hắn với những vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, An Sơn, Bình Nhâm (nơi sinh quán của hắn) hấp dẫn đến mức mà người nghe thấy mát rượi với những cây chôm chôm, măng cụt, sầu riêng... ngát hương vườn lài, thơm phức mùi sầu riêng và ngọt lịm mùi lò đường, ruộng mía ven sông …Và bao gìờ kết thúc câu chuyện cũng là lời mời rất chân tình: “Khi nào đi qua Chợ Búng, nhớ ghé nhà tao, tao sẽ đưa tụi mày đi ăn bánh bèo bì Mỹ Liên, hay Ngọc Hương, hai tiệm bánh bèo bì nổi tiếng không những ở chợ Búng mà khắp nước đấy. Rồi về nhà tao, mẹ tao sẽ đãi một bữa cháo vịt – thịt vịt bầu mà chấm nuớc mắm gừng do mẹ tao pha chế thì hết sẩy – Tụi mày sẽ nhớ đời …”
Hồi tôi ở trại tỵ nạn, trầy trật bốn năm trời mới vượt qua cuộc thanh lọc đáng ghét, và khi gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn thì bị từ chối, mặc dù tôi có đầy đủ gia đình ở bển. Còn chồng tôi, cả giòng họ rủ nhau đi vượt biên rất sớm, năm 1977 khi cả miền Nam đang vào cơn tàn tạ dưới bàn tay của “bên thắng cuộc”. Trong khi ở trại Mã Lai chờ phái đoàn Mỹ, thì phái đoàn Canada lơn tơn xuất hiện, gia đình chồng tôi nôn nóng thoát khỏi cuộc sống tù túng ở trại nên nhắm mắt đưa chân qua Canada định cư luôn một lèo. Sau đó, chồng tôi đi học, vào cấp ba rồi Đại Học, quyết chí thực hiện giấc mơ Mỹ Quốc năm xưa, bèn nộp vào trường Đại Học tại New York. Khi nộp đơn thì hào hứng, đến khi được nhận thì bị bà má chồng “bàn ra”, vì sợ tốn kém với số “student loan” quá lớn, chồng tôi cũng bị nản chí, không qua đó học nữa.
Thời gian gần đây, tôi đọc được bài ký sự sống động đã cho tôi một bài học trân quý về nền giáo dục của Hoa Kỳ từ tác giả Hạ Vũ, với câu chuyện “Tôi làm Cô giáo nhà trẻ Mỹ” trên mục VVNM trang Việt Báo. Tác giả kể chi tiết từng hoạt động và phương pháp chăm sóc trẻ nhỏ tại lớp học. Từ việc chuẩn bị môi trường sạch sẽ, an toàn và cách cho trẻ ăn uống, vệ sinh đến giấc ngủ trưa yên lành; ngay cả việc vệ sinh cho bé cũng phải hết sức kiên nhẫn và luôn dùng chữ “please” để khởi đầu và cho biết mình sắp làm gì đó cho trẻ, chữ “thank you” để cảm ơn trẻ đã cộng tác, dù việc đó là phục vụ cho chính các em.
Trong 53 năm, chúng tôi kề cận, nhường nhịn, yêu thương và chăm sóc nhau để cùng xây dựng cuộc sống riêng sau khi cả hai chúng tôi học xong đại học. Chúng tôi đã có một gia đình nhỏ an vui với hai con trai. Và từ khi chúng tôi đem hai cô con gái nhà người dưng, mang về làm hai con gái ruột nhà mình thì gia đình chúng tôi có thêm ba đứa cháu. Nay, các con đã thành nhân, các cháu thì đã có đứa chuẩn bị vào đại học. Hai con trai của chúng tôi đã có nghề nghiệp vững vàng, chúng đã có nhà riêng. Chúng tôi già dặn hơn cùng với sự trưởng thành của con cháu. Hai chúng tôi đã về hưu, vẫn cùng có nhau, tiếp tục nhường nhịn, chăm lo cho nhau trong những năm tháng cuối đời...
Dallas mới qua một đợt lạnh khủng hoảng sau lễ tình yêu, nghỉ học nghỉ làm tuyết đá đầy đường. Hy vọng là đợt lạnh cuối mùa vì thời tiết Texas khó đoán bởi đôi khi sang tháng tư còn tuyết. Tội nghiệp những người thích trồng, họ thường gieo hạt giống trong garage từ cuối tháng hai để sang tháng ba là đậu bắp đã cao được gang tay, cà chua non nhìn mắc ham, những cây ớt xanh mát mắt... Đợi tháng ba cho ra vườn là sớm có ăn, nhưng đầu tháng tư trời lại đổ cho trận tuyết làm cây con chết ráo. Những người mê trồng tính khôn ăn sớm nên gieo hạt trong garage từ cuối tháng hai lại hoá ra ăn muộn vì phải gieo hạt lại lần nữa.
Các nhà khoa học có thể đưa ra tuổi thọ trung bình của một người, nhưng chưa có một thống kê nào cho biết mỗi người từ khi sinh ra cho đến khi nằm xuống đã ở được khoảng bao nhiêu căn nhà! Điều này có thể nói lên mỗi người có những nhu cầu “xê dịch” rất khác nhau. Sau hiệp định Genève 1954, cuộc sống của người Việt Quốc Gia chỉ trong phạm vi từ vĩ tuyến 17 cho đến Mũi Cà Mau. Nhưng kể từ năm 1975 cho đến nay thì “nhà Việt Nam” đã có mặt tại hơn 130 quốc gia trên thế giới. Mỗi một căn nhà của người Việt trên quê người gói ghém tất cả những thăng trầm của một đời lưu lạc nơi đất khách; là những vinh nhục, được mất, hy sinh, đánh đổi để tồn tại. Biết bao người bôn ba ra hải ngoại đang sống trong những căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi; nhưng từ trong sâu thẳm họ vẫn không quên được căn nhà cũ của mình trên quê mẹ!
Nhạc sĩ Cung Tiến