Hôm nay,  

Valentine Cho Người Chưa Gặp Mặt

14/02/202317:56:00(Xem: 3322)

 

Tác giả tên thật là Nguyễn Thị Kim Loan, sinh năm 1966, là cô giáo tiểu học khi còn ở Việt Nam. Vượt biên và sống ở trại tỵ nạn Thailand từ 1989-1993. Định cư tại Canada từ 1994 đến nay. Tác giả nhận giải đặc biệt VVNM 2021.

*

Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong những phi trường lớn nhất nước Mỹ, đó là Denver International Airport. Tuy chưa bao giờ đi vào trong thành phố, mà chỉ nhìn qua cửa kiếng sân bay, qua những chuyến xe bus, xe lửa đổi terminal, tôi vẫn phóng tầm mắt nhìn xa hơn, cộng với trí tưởng tượng bay bổng của mình, để tìm một bóng dáng thân quen, để thấy một Denver mến thương… từ thuở nào! 

Khi tôi vượt biên cuối năm 1989 đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand, liền viết thư cho ông anh bên Mỹ về tình hình trại tỵ nạn đã bị Cao Uỷ đóng cửa từ ngày 14/3/1989, những ai đến trại sau ngày này sẽ phải chịu thanh lọc rất khắt khe. Nghe tin đó, anh vội vàng nghĩ suy mọi cách để cứu tôi, chứ dứt khoát không cho tôi quay trở về Việt Nam.

Rồi một hôm tôi nhận được hơn hai mươi lá thư từ Mỹ, chỉ có một cái thư của anh tôi, còn lại là những cái tên Mỹ lạ hoắc.

Ôm một đống thư về chỗ ở trại tỵ nạn, tôi đọc thư anh tôi trước. Anh giải thích rằng đã tự ý giúp tôi bằng cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ với ước mong tôi sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ…tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Anh cũng nói, tôi đừng sợ hãi, cứ chọn lọc trong các lá thư, tìm ra người nào có vẻ tin cậy thì hồi âm, dù sao cũng là cách giết thời gian và học thêm English, làm bạn bè cũng tốt.

Giờ thì xin mở ngoặc nói về ông anh Th. yêu quý của tôi. Trước đây ở Việt Nam anh làm thầy giáo, rồi sau năm lần bảy bận đi vượt biên vào tù tội mới trót lọt, với câu nói cương quyết: “Nếu bỏ xác ngoài biển thì đành chịu, chớ còn đôi chân là còn đi vượt biên, đi hoài cũng tới, trời không phụ lòng người”.  Không biết anh có uy tín cỡ nào, mà kể từ khi anh bắt đầu toan tính ra đi, vài bạn thân trong xóm với gia đình tôi cứ hay đến nhà tôi thầm thì có chỗ nào vượt biên thì kêu tui nhe, đi chung với anh Th. cơ. Người có quyết tâm và niềm tin như anh thì chắc sẽ gặp may. 

Trước năm 1975, anh đã từng học Anh Văn ở Hội Việt Mỹ nên rất khát khao đến được xứ tự do dân chủ này. Khi qua đến Mỹ như mong ước thì anh càng yêu Mỹ nhiều hơn. Anh còn khuyến khích tôi, đừng e ngại nếu kết hôn với người Mỹ vì có rất nhiều điểm lợi, nào là học được English hàng ngày hàng giờ, nào là sinh ra con sẽ cao lớn, xinh đẹp, nào là sẽ mang last name của chồng là last name Mỹ, khi đi học đi làm rất khó bị phân biệt chủng tộc…vân vân...và vân vân.

Nghe anh nói vậy tôi cũng yên tâm và hứng thú phần nào, dù lúc đó tôi vẫn có suy nghĩ phải quen và lấy chồng người Việt, chứ không hình dung được cái cảm giác sống chung với một người Mỹ mắt xanh, tóc vàng, tay chân đầy… lông lá.

Tình hình trại tỵ nạn lúc ấy quá căng thẳng, không còn chọn lựa nào khác, nên theo lời khuyên của ông anh, tôi mở các lá thư Mỹ ra đọc. Đầu tiên, tôi loại bỏ những thư không có hình kèm theo, tiếp theo là loại những người…viết chữ xấu, cẩu thả, (thói quen nghề nghiệp cô giáo khi còn ở Việt Nam), rồi loại tiếp những lá thư có hình nhưng nhìn… hổng đẹp trai và loại luôn những người viết thư …vô duyên (dù trình độ Tiếng Anh của tôi lúc ấy chả có là bao!).

Cuối cùng tôi chọn được một lá thư với nét chữ đều đặn, mềm mại, giọng văn chân tình nghiêm túc, nghề nghiệp vững vàng (giáo viên dạy English ở một trường Trung Học ở Denver, Colorado, vậy là đồng nghiệp với tôi), và tấm hình một chàng trai Mỹ trắng có nét hiền hoà, dễ mến, tên họ đầy đủ là Don Garner. 

Với tất cả vốn liếng English có được, tôi viết thư cho Don, giới thiệu bản thân, cám ơn Don đã vui lòng kết bạn, giúp tôi trau dồi thêm Anh Ngữ trong thời gian chờ đợi ở trại tỵ nạn và tôi cũng gởi một tấm hình tôi mặc chiếc áo màu đỏ thắm, chụp trước căn “nhà” của tôi trong trại tỵ nạn. Don hồi âm và nói thích tấm hình, thích... màu áo của tôi, khen tôi nụ cười tươi như hoa. Don phóng to tấm hình này với size bằng cuốn vở rồi gửi lại trại cho tôi làm kỷ niệm.

Cứ hai tuần một lần, Don gửi một lá thư, kèm thêm tái bút những đoạn dạy tôi grammar mà thư trước tôi đã viết sai và luôn luôn có những tấm hình phong cảnh Colorado, vì nhiếp ảnh là niềm say mê của Don sau giờ đi dạy.

Chắc tôi cũng có máu di truyền từ ông anh. Nếu ông anh đã từng yêu nước Mỹ từ khi còn học ở Hội Việt Mỹ, thì tôi trước đây đã yêu Wichita, Kansas, hay San Antonio, Texas qua những hình ảnh anh tôi gửi qua, thì giờ đây, qua ống kính của Don, tôi đã yêu thêm Denver của Colorado và những địa danh xung quanh: Rocky Mountain, thượng nguồn nước chảy xuôi theo dòng Mississippi vào Vịnh Mexico, những trang trại trồng lúa mì. Từ miền tây qua bên đông, đất của tiểu bang này là lưu vực giống sa mạc, trở thành cao nguyên, rồi núi Alpine, rồi đồng cỏ của đồng bằng Lớn. Núi Elbert là đỉnh cao nhất của dãy núi Rocky. Đỉnh Pike nổi tiếng một tí về phía tây của Colorado Springs. Có thể nhìn thấy đỉnh hiu quạnh của nó từ gần biên giới Kansas vào những ngày nắng và mùa đông tuyết phủ trắng một vùng núi bao la, kỳ vỹ…

Đã có lúc, tôi viết thư cho ông anh, đồng ý rằng, người Mỹ hay người ngoại quốc da trắng, có những người rất dễ thương, đáng tin cậy. Vì ngoài Don mà tôi dần thân thiện qua những lá thư, trong bưu điện trại tỵ nạn lúc ấy có thêm mấy chàng thiện nguyện người Tân Tây Lan, trong đó có chàng Peter thật hiền lành, nhút nhát và cực kỳ tốt bụng. Peter có râu quai nón, cánh tay  rậm rạp lông, vậy mà nở nụ cười là thấy… hiền khô. Ngoài giờ làm cho bưu điện, cuối tuần nhóm thiện nguyện vào trại có Hội Thánh Tin Lành để rao giảng Thánh Kinh.  Lần đó bưu điện làm tiệc sinh nhật cho tôi (bất cứ ai đến ngày sinh nhật đều được có một tiệc rất ấm cúng), Peter bị ép lên tặng hoa và ôm tôi, mà mặt anh chàng đỏ rực như ánh mặt trời, thấy thương làm sao.

 

Trở lại câu chuyện với Don, mùa Giáng Sinh, Don gửi cho tôi một gói bưu phẩm, trong đó có một máy cassette nhỏ xài bằng batteries để tôi học English, có cả đồ charge, vài country music tapes, đồ lặt vặt, một hộp bánh cookies và tấm thiệp chúc Noel bên trong có 4 cây candy canes (Don tinh tế biết tôi ở chung với ba cô bạn gái), loại kẹo hình cán dù dùng để trang trí cây thông Giáng Sinh. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy candy canes, nên cứ ngỡ đó là một cái gì đó, chắc là để trong thiệp làm vật trang trí theo truyền thống Phương Tây, nên quăng chúng vào một góc nhà. Vài ngày sau, một đứa vô tình làm bể một cây, lấy tay sờ và nếm thì thấy ngọt, lúc đó cả đám mừng húm vì biết đó là…kẹo, bốn đứa xúm lại ăn liền một mạch hết sạch và khen ngon rối rít.

Tôi dần dần cảm mến Don, dù chỉ qua những lá thư, những hình ảnh và những món quà bé nhỏ xinh xinh. Tôi cảm nhận được một chàng trai đứng đắn, mô phạm, có trái tim ấm áp với tình yêu thiên nhiên bao la rộng lớn.

Don luôn muốn cho tôi hiểu biết nhiều hơn về nước Mỹ, giải thích chi tiết từng sự việc, những tấm hình phong cảnh anh chụp đều ghi chú rõ ràng, địa điểm, thời gian và cả những điều thú vị liên quan đến nơi ấy.

Để giải thích sự chậm trễ thư từ mùa cuối năm, Don chụp những tấm hình khi đến post office gửi quà cho tôi, nào là những chiếc xe của post office chất đầy ứ những bao tải chứa thư, những nhân viên đang chuyển những gói parcels ra xe dù ngoài trời đã sập tối lất phất tuyết rơi. Don bảo, mùa này người ta gửi thư gửi quà cho nhau nhiều lắm, dù nhân viên làm việc tăng thêm giờ cũng sẽ vẫn có những thư từ, bưu phẩm chậm hơn những thời gian khác trong năm và nhắn nhủ tôi nếu thư Don đến chậm thì hãy thông cảm cho Don và đừng giận Don, đừng giận ... nước Mỹ nhé (thấy thương ghê chưa!)

Như một cái gì đó rất quen thuộc, mỗi lần đợi chờ thư của Don thật háo hức, một niềm vui dịu dàng êm ái vì thư của Don lúc nào cũng có vài tấm hình và ít nhất là 4 đến 6 trang thư, đem đến cho tôi một nước Mỹ tuy xa xôi nhưng quá đỗi gần gũi, đầy quyến rũ mộng mơ.

Qua mùa Giáng Sinh năm ấy, thư của Don bắt đầu thưa thớt và sau đó là lá thư thật dài, Don nói về bệnh skin cancer vừa mới phát hiện vài ngày trước lễ Giáng Sinh. Bác sỹ nói bệnh trong giai đoạn sớm nên chữa trị không khó khăn, có nhiều hy vọng nhưng sẽ mất nhiều thời gian, nên Don xin nghỉ việc, điều trị và về an dưỡng nơi nông trại lúa mì của cha mẹ vùng ngoại ô Denver.

 

Đó cũng là lá thư cuối cùng của Don, dù tôi tiếp tục gửi vài lá thư thăm hỏi bệnh tình về địa chỉ của Don và nơi trang trại của cha mẹ Don đều không thấy hồi âm. Tôi tin rằng mình chẳng làm điều gì phật lòng người bạn phương xa, nhưng thực sự không tìm được câu giải đáp của sự im lặng này.

Cuối cùng, tôi tạm thời đưa ra hai giả thuyết. Một là, bệnh của Don đã chuyển biến xấu nên anh ấy không còn thời gian và tâm trí dành cho tôi. Hai là, Don cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ với cô gái Việt Nam nơi trại tỵ nạn với hoàn cảnh quá bấp bênh nên nhân dịp này Don ngưng liên lạc để sau này bắt đầu mối quan hệ mới, có khả năng tiến xa hơn trong tầm tay?

Tôi vẫn mong giả thuyết thứ hai là đúng, tôi sẽ không bao giờ buồn phiền hay trách móc một lời và xin chân thành cám ơn anh đã đến với tôi như một người bạn, Don ơi!

Khi tôi kể câu chuyện này cho các chị trong một nhóm Văn Thơ, mọi người xúm lại đưa ra những giả thuyết khác nhau về sự “biến mất” của Don, thậm chí các chị còn rủ nhau “viết tiếp đoạn kết” cho câu chuyện “tình” vượt đại dương giữa tôi và Don.

Người thì diễn tả như trong phim ngôn tình, chàng khi chữa bệnh thì mặc cảm, tuyệt vọng nên không thư từ cho nàng, cho đến khi bệnh tình khá hơn, chàng vội viết thư cho “người em gái tỵ nạn” thì hỡi ôi, nàng đã lên đường định cư!

Người khác, cho đoạn kết mang dấu ấn phim Hàn Quốc, chàng sau một thời gian hóa trị và xạ trị, đã mắc bệnh ... mất trí nhớ, nên những lá thư nàng gửi tới chỉ làm chàng hờ hững như đám giấy lộn vô tri vô giác.

Vui hơn là một chị cho câu chuyện theo kiểu Quỳnh Giao, là cha mẹ chàng đã phát hiện ra chàng đang có “tình xa” với một cô gái Châu Á, trong khi họ muốn chàng lấy vợ da trắng, môn đăng hộ đối, nên đã cấm đoán và nhân dịp chàng về nhà chữa bệnh, họ đã dấu hết các lá thư của nàng, gây cho chàng hiểu lầm là nàng đã đổi thay khi chàng ngã bệnh nên từ đó... ly tan.

Dĩ nhiên đó chỉ là những “đoạn kết” tưởng tượng vui vẻ, nhưng cuối cùng các chị ấy cũng nghiêm túc, đề nghị giúp tôi tìm Don trên Googles, vì với đầy đủ tên họ và số tuổi thì việc tìm tung tích không đến nỗi khó khăn nếu Don vẫn còn ở Denver.

Tôi bèn nghe lời khuyên, search trên Googles, sau khi narrow down, tôi cũng tìm được vài người mang tên Don Garner, ở lứa tuổi đó, nhưng tiếc là không có hình ảnh (cũng có thể tôi đã không tìm đúng cách). Tôi cũng chẳng muốn làm phiền người khác tìm giúp Don, vì để làm gì chứ?

Tôi và Don, định mệnh cho gặp nhau qua những lá thư, trong một hoàn cảnh đặc biệt ở trại tỵ nạn. Dù tình cảm vừa nhẹ nhàng chớm nở, mến nhau nhiều hơn qua những tâm sự, những câu chuyện của nhau và qua những tấm hình, Don nói yêu mến đất nước và con người Việt Nam, cũng như tôi đã yêu thương Denver, Colorado và nước Mỹ của Don.

Nhưng chúng tôi chưa hề nói lời yêu nhau, chưa một lần nói nhớ thương, chưa dự định những hứa hẹn dài lâu vì đâu biết chuyện thanh lọc ở trại tỵ nạn của tôi sẽ ra sao. Anh vẫn đang là một người bạn, một người thân, một người đều đặn mang cho tôi niềm chia sẻ, ủi an trong mỗi lá thư, giúp những ngày trại tỵ nạn của tôi thêm niềm vui dù tương lai còn mong manh  xa vời.

Để rồi Don bỗng mang bệnh hiểm nghèo, định mệnh mang Don đến với tôi rồi lại mang Don ra khỏi đời tôi không một lời giải thích để lòng tôi vẫn xốn xang khắc khoải đi tìm một lý do.

Dù sao đi nữa, tôi vẫn nhớ ơn Don về những tháng ngày ấy, nhớ nhiều những điều mới lạ Don giới thiệu với tôi về nước Mỹ, về những cây candy canes mùa Noel, về mùa Valentine nào đó Don gửi một gói bưu phẩm với hộp chocolate và kể cho tôi nghe về ngày lễ dễ thương này, không hẳn dành cho những đôi yêu nhau, mà còn cho cả bạn bè thân, gia đình, ngay cả đám học trò cũng tặng thiệp Valentine cho Thầy giáo Don.

Để giờ đây mỗi lần có dịp qua Mỹ, khi máy bay dừng chuyển tiếp ở Denver, tôi lại thấy lòng bâng khuâng, bồi hồi như sắp gặp lại người bạn cũ. Dù anh còn đó hay không, dù anh thế nào, đối với tôi, Denver vẫn là một địa danh đẹp luôn có bóng hình anh.

Valentine năm nay tôi viết lại câu chuyện này, cho Don, một người chưa hề gặp mặt, như một món quà ghi dấu kỷ niệm của chúng tôi, của một thời đã qua khi cả hai còn rất trẻ.

Và đây là bài thơ tôi viết tại phi trường Denver trong một lần chờ chuyến bay và nghĩ về Don:

 

LẠC NHAU Ở DENVER

 

Máy bay vừa hạ cánh

Denver lạ mà quen

Phi trường tôi vừa đến

Chờ mong được gặp Don

 

Người người lướt qua nhau

Terminal kiếm tìm

Hành lý cũng vui theo

Tôi và những niềm riêng

 

Tôi đứng đây, ngơ ngẩn

Giữa đám đông đợi chờ

Hỡi anh, Don thân mến

Đừng để tôi bơ vơ

 

Chuyến bay này nối tiếp

Hẹn gặp tại Denver

Quán café Starbucks

Mình nhắc lại chuyện xưa

 

Anh mặc áo màu gì?

Xung quanh tôi xa lạ

Những bước chân vội vã

Vẫn thiếu vắng một người

 

Lẽ nào anh không nhớ!

Hay anh trễ chuyến bay?

Phi đạo trong nắng gió

Người thì như bóng mây

 

Tôi phải boarding rồi

Qua gate mà ngập ngừng

Thế là anh và tôi

Chẳng được phút tương phùng

 

Máy bay tung đôi cánh

Chìm vào trong mây trời

Anh vẫn là hình ảnh

Trong ký ức mà thôi

 

Edmonton, Valentine 2023

KIM LOAN

 

 

Ý kiến bạn đọc
15/02/202310:35:19
Khách
Lúc còn sinh thời, Nghệ Sĩ La thoại Tân đã nói với khán giả: "Người không có tình yêu cũng như chết mà biết thở."

Kể từ lúc sinh ra đã nói ngay được hai chữ "Hello World !" và trải qua "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh", người đọc nhận thấy câu nói trên thấm thía làm sao [í].

Nhân dịp Ngày của Tình Yêu [Valentine's Day] và bắt chước tác giả, xin chia xẻ với độc giả những "câu chuyện tình" [không phân biệt thời gian và không gian] mà người đọc may mắn gặp được trên những nẻo đường đời đã đi qua:

- Đôi tình nhân đẹp nhất: Lý Tầm Hoan và Lâm Thi Âm trong bộ trường thiên tiểu thuyết võ lâm "Đa Tình Kiếm Khách, Vô Tình Kiếm" của Cổ Long

- Piano Concerto 1 & 2 của F. Chopin

- "Gẫy Cành Thiên Hương" của Thanh Hà

- Nhà Vật Lý và Thiên Văn Học [Physicist & Astrotnomist] Janna Levin của Columbia University trong "Black Hole Apocalypse"

Những câu chuyện tình [quá đẹp và hay] trên đã để lại những dấu ấn sâu sắc [không bao giờ phai] trong lòng người đọc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 605,077
Năm tháng trôi qua, bao nhiêu lượt người đến đi, không có gì xảy ra; bà quen dần với những người khách trọ xa lạ, tự cho mình là chủ quán trọ. Bà tế nhị quan sát cách sinh hoạt, lời ăn tiếng nói của từng vị khách, đánh giá từng người, xã giao vừa phải. Bà nghĩ xử thế làm sao để khi người ta đi vẫn giữ được thiện cảm với nhau.
Cuối năm 2021 tôi về hưu sau khi đã làm việc 31 năm ở công ty, nhận được một cái Rolex sau 25 năm, một đồng hồ Apple sau 30 năm, một đồng hồ grandfather clock treo tường, một đồng hồ để bàn bằng gỗ đỏ sang cả quí phái, một đĩa bạc “ghi công” để chưng bày khoe khoang tại phòng khách. Mọi thứ đồ đoàng có trong kho mình đều thu tóm cả. Bây giờ thì về đi thôi! Lúc này tôi mới nghĩ đến nơi ăn chốn ở trong giai đoạn mới của cuộc đời. Ngày xưa còn miệt mài cày bừa trả nợ nhà, nợ xe, nợ “con”, mình gồng mình vớt lấy một căn nhà trong khu trường tốt, vượt cả khả năng tài chính, để rồi phải nhịn ăn nhịn mặc, còng lưng trả tiền nhà mút chỉ hụt hơi. Nay con đã lớn, thôi thì nhường khu này lại cho những cặp vợ chồng trẻ đang nhắm nhía trường xịn cho con họ.
Lúc tôi viết bài 32 Năm Người Mỹ Và Tôi, đã cảm thấy là “coi bộ vợ chồng mình cũng bền vững dữ há, nhứt là khi ngôn ngữ bất đồng, Đông Tây không gặp nhau” Những tưởng sẽ còn sống với nhau cho tới khi ăn được cái ngày kỷ niệm “ lễ cưới hột xoàn” chớ, ngờ đâu, mới hơn 53 năm anh bỏ tôi, mau chóng ra đi một mình.
Tác giả Phi Nguyễn lần đầu tham dự VVNM với bài "Trái mít". Bà sinh sống và làm việc tại thành phố Brunswick, Georgia. Đây là bài mới nhất của Bà, viết để chia xẻ một kinh nghiệm chìa khóa xe bỗng dưng không mở được cửa nữa và những điều cần phải làm sau đó thay vì hoảng sợ.
Tôi bấm chuông và đứng đợi. Mùi hương thoảng nhẹ trong không khí khiến tôi chú ý đến mấy khóm hồng dọc hai bên lối vào. Những cụm hồng nhung đủ màu mới vài ngày trước còn đẹp rực rỡ, vậy mà giờ đây đã xuống sắc, cánh hoa rơi tan tác vương vãi khắp nơi. Tôi nhìn lên tấm bảng nhà dưỡng lão (Residential Care Home) và bỗng thấy lòng chùng xuống. Bên trong cánh cửa này, có bao cuộc đời từng một thời tung hoành ngang dọc, nhưng nay họ đều đang thập thò bước thấp bước cao đi vào đoạn cuối đời, cho dù có an phận sẵn sàng hay vẫn còn luyến tiếc.
Nhờ Đi Dự Đám Cưới Cô Cháu, Tôi Biết Có Những Người Bị Đồng Bệnh Mắt Với Mình Để Chia Sẻ Thứ bảy tuần vừa qua April 8th, 2023. Toàn thể đại gia đình chúng tôi đã đi dự tiệc cưới của cô cháu, con gái của cô em tôi. Trong buổi tiệc cưới ấy, chúng tôi ngồi cùng bàn với cha mẹ của cô dâu. Mọi người trong bàn đều nhìn nhau bằng ánh mắt băn khoăn, như tự hỏi, sao không thấy sự hiện diện của hai ông bác, là anh của ba cô dâu. Mặc dù thắc mắc như vậy, nhưng mọi người hơi ngần ngại, chưa ai dám cất lời hỏi cả. Thần giao cách cảm! Như đã nằm lòng, đoán biết thế nào cũng có người hỏi về sự vắng mặt của hai ông anh mình. Với sắc thái nhạy cảm, ba của cô dâu đã lên tiếng trước để chia sẻ với chúng tôi là cả hai bác đều bị bệnh đau mắt giống nhau, nên không ai dám lái xe nữa, vì khi lái xe, nhìn xa thấy cái gì cũng nhiều gấp đôi, bảng tên đường, lằn gạch vẽ trên mặt đường, mũi tên quẹo phải, hay trái và những đèn đường toàn là nhiều nhân gấp hai lần, nên sợ quá, bỏ lái xe luôn.
Tôi từng đi Mỹ thăm gia đình từ thập niên 90 của thế kỷ trước, nhưng lần này thì khác, sau 14 năm chờ đợi, thật ra tôi nhận được giấy báo của NVC (National Visa Center) năm 2019 chuẩn bị hồ sơ đến Tòa Đại Sứ Mỹ tại Paris cho buổi phỏng vấn đi Mỹ. Nhưng dịch covid đã treo buổi phỏng vấn vô thời hạn, tôi tự hỏi có nên phiêu lưu làm lại cuộc đời lần thứ hai vào tuổi đã xế chiều ?
Cây cam trước cửa sổ phòng làm việc của bà Vi đã nở đầy hoa, dày đặc những chùm hoa trắng nõn nà. Một số cánh hoa từ từ rụng xuống để lại những chùm trái nhỏ xíu lấm tấm như những đầu chiếc đinh ghim mầu xanh ngộ nghĩnh. Sáng nay bà Vi dậy sớm, thư thả ngồi nhìn ra cửa sổ, mải mê ngắm hai con chim đang bay ra bay vào xây cái ổ tít trên cành cao của cây cam. Chiếc tổ chim vừa hoàn thành, những sợi cỏ khô mỏng mảnh đã được bện thành một cái tổ gọn gàng, nhỏ bằng hai bàn tay chụm lại. Chúng khôn quá, xây tổ trên cành cam, khi chim con ra đời sẽ được thưởng thức mùi hương hoa cam thơm ngát. Bà mỉm cười nghĩ thầm, rồi rảo mắt nhìn ra phía vườn sau.
Ông nhếch môi cười chua xót ngẫm lại cuộc đời mình: tuổi trẻ làm người lính VNCH, rồi bị tù hơn 13 năm, cũng mộng ước như bao nhiêu người khác nghĩ đến tổ quốc thân yêu, nhưng rồi lực bất tòng tâm, quay đi bước lại soi gương đầu đã bạc. Ông chạnh nhớ người vợ đầy xót xa đau ruột, chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ trong thời gian ông bị tù đày. Qua Mỹ tìm tiểu bang Minnesota lập nghiệp, vợ chồng làm việc siêng năng, bắt tay vào cuộc sống cày bừa gầy dựng tương lai, lo các con ăn học và muốn an cư lạc nghiệp. Các con tốt nghiệp ra trường, lập gia đình và có cuộc sống riêng. Một ngày mùa hè người vợ bỏ cuộc với căn bệnh tàn nhẫn, dứt áo ra đi khi tuổi đời chưa tới 60. Ông chới với hỏng chân, tinh thần suy sụp chỉ biết mượn rượu uống cho say, công việc bỏ bê bị laid-off. Ông chẳng còn thiết sống, nhà cửa do vợ chồng gầy dựng tưởng sống tới bạc đầu, bù đắp những ngày khốn cùng cay nghiệt ở VN, thế mà vợ chồng ông đã đầu hàng... buông hết. Con trai sợ ông sinh bệnh ép về ở chung để chăm sóc,
Việc gì Bố làm, ai cũng tấm tắc khen. Trong mắt tôi, Bố thật tuyệt vời. Vậy mà bố không biết chữ! Lúc còn nhỏ, tôi không hề biết rằng, những chuyện do bản năng như đi đứng nằm ngồi thì không cần phải học. Còn lại không học thì không biết, bằng chứng khi học lớp hai, tôi đã biết đạp xe vù vù, trong khi nhiều bạn trong lớp cho tới lớp năm, vẫn chưa biết đạp xe. Lớn lên ở vùng sông nước, Bố cũng tập cho tôi bơi như con rái cá khi còn rất nhỏ, nên trong mắt các bạn, Bố thật cừ khôi. Từ khi biết Bố mù chữ, tôi không còn cười toe toét mỗi khi nghe các bạn khen bố nữa. Có một cái gì "lấn cấn" mà tôi không nói được: bực bội, mặc cảm, giận dỗi! Bây giờ tôi rất ngại ngùng, khi đi cùng Bố đến những nơi hội họp đông người, nhất là khi có mặt Bố mẹ của các bạn trong lớp. Bố của bạn này là Bác Sĩ, mẹ của bạn kia là cô giáo.
Nhạc sĩ Cung Tiến