Hôm nay,  

lẽ ra mùa này…

09/04/202315:22:00(Xem: 3345)

Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. 

 

***

 

Trời ảnh hưởng bão nên trở lạnh, lẽ ra mùa này rảnh lúc nào là ra hồ câu cá lúc nấy, ngược lại ngồi nhà như bị nhốt, bị cầm chân thời đại dịch. Ngồi nhà ắt sinh chuyện vì nhàn cư vi bất thiện, chẳng nghĩ đến cống hiến mà cứ nghĩ đến hưởng thụ. Mùa mưa về bên quê nhà khoảng tháng tư tháng năm, cũng là mùa cá nục ở vùng biển. Lái xe ngang qua Phan thiết thì không thể nào đếm hết có bao nhiêu bà Mệ bán gánh, nhưng cùng bán một món ngon ở Phan thiết là cá nục kho. Ngày xưa, làm nghề xe thì ai cũng nói về cánh lái xe là những người ăn như quan phủ ngủ như tôm kho vì đi ngang địa danh nào, ghé quán cơm nào cũng sẽ ăn món ngon nhất, không quan tâm chuyện mắc hay rẻ, nhưng ăn xong chui vô xe ngủ thì không đủ rộng để duỗi thẳng chân, cứ phải nằm co quắp như con tôm kho mà thành câu thành ngữ ăn như quan phủ ngủ như tôm kho.

 

   Riêng món cá nục kho ở Phan thiết là món của dân nghèo, bán rẻ đến không ngờ vì những bà Mệ bán gánh thì bán mắc cho ai được. Cứ cái lò than liu riu hâm nóng nồi cá kho bên trên đến xương cá mềm như xương cá hộp, cá nục đầu mùa mập ú ù u, mỡ rệu đến không cần cắn hay nhai mà chỉ cần miết lưỡi lên nóc họng là miếng mỡ tan ra vòm miệng, hoà theo cơm nóng sướng tê tái, lại không ngán như mỡ heo vì mỡ cá đâu phải ngày nào cũng được ăn. Thịt con cá nục vùng biển Phan thiết không trắng như biển Hà tiên hay ra phía ngoài cỡ Quy nhơn, Tuy hoà ra Đà nẵng, con cá nục Vũng tàu thịt cũng trắng nhưng ngon ngọt không bằng cá nục Phan thiết, thịt nó hồng hồng, chắc thịt, ngon ngọt và độ giai vừa đủ để giòn ngon. Các Mệ bán gánh kho cá với ớt bột, với gia vị gì không rõ chỉ thấy nước cá kho lên màu đỏ cam hấp dẫn với mỡ cá óng ánh… Nhìn nồi cá kho liu riu, không chỉ mùi cá mà có luôn mùi biển bốc lên nhẹ thoảng làm đói bụng.

 

    Thường khi đi xe du lịch tức lái xe hơi chở khách ra các tỉnh miền trung hay Hà nội thì không tiện mua cả nồi, nhưng khi đi xe vận tải thì chúng tôi thường đi ba tài, không có lơ xe để một người ngủ, một người lái và một người ngồi trò chuyện với người lái để anh ta không ngủ gục. Rồi thay phiên nhau ngủ, lái và nói chuyện từ Sài gòn lên Lạng sơn, qua Trung quốc và quay về. Đường ngày xưa xấu nên lái chậm, nên cần lái liên tục cho kịp hàng, nhất là mùa tết. Nhớ trời lạnh trên vùng tây bắc Việt nam, gặp hôm mưa rừng thì đừng chờ tạnh, chúng tôi ba đứa ở trong cabin xe riết cũng ngán nên ghé lại đâu đó; thường mưa thì xạt lở, đất đá trên núi trút xuống làm nghẽn đường, phải chờ những người lo về cầu đường ở địa phương họ dọn dẹp thì mới đi tiếp được. Đó là dịp chúng tôi dừng chân, lôi cái bếp dầu trong xe ra, bắc ấm nước trà uống cho bớt lạnh và tỉnh táo, sau đó bắc nồi cơm và lôi nồi cá nục kho ra. Ba đứa ăn tới quên thôi vì trời lạnh mà ăn cơm nóng với cá kho cay cay thì còn gì bằng, cá lại ngon nhất cả nước mới trở thành hàng qúy hiếm trên rừng, chia sẻ cho anh em lái xe khác cũng kẹt đường, ai cũng không ngờ món cá nục kho Phan thiết lại ngon đến vậy. Hầu như cánh xe tải thì trên xe ai cũng có gạo để nấu cơm vì khi qua những vùng không có người ở, không hàng quán thì phải tự nấu cơm ăn thôi; xe ai cũng có cá khô, cá hộp, chả lụa, nem chua để nhậu lai rai khi dừng chân qua đêm. Nhưng ăn hoài cũng ngán trừ món cá nục kho Phan thiết là ăn hoài được vì ăn miếng đầu hơi dội đũa với mùi cá biển, nhưng gắp vài miếng là bắt đầu ngây, gắp miết tới no không đứng dậy nổi.

 

   Đã bao năm xa nhà, xa quê, đã bao đêm chợt nhớ hay bỗng thèm một món dân dã đã mịt mù trong ký ức bỗng quay về. Đã đời thay cho cuộc sống hải ngoại khi ngoài trời đen kịt như đêm ba mươi, sấm sét như xé toang bầu trời rồi lại đen kịt như ngày tận thế, gió mưa gào thét làm nhớ rừng, nhớ biển, nhớ bạn, nhớ một thời rong ruổi từ nam ra bắc, xuôi ngược dải đất Việt nam hình chữ S đến vạt gót giày. Ngày ấy đâu ngờ có ngày ngồi nhớ những vất vả đến thương thân nhưng lại ước được sống lại một lần như thế, được ăn chén cơm nóng giữa rừng mưa tây bắc, cắn miếng cá kho đậm đà đến cả đời không quên được những bà Mệ lam lũ, bán gánh ngày mưa tháng nắng dãi dầu nhưng vui vẻ, tốt bụng, vừa bán vừa cho như giúp kẻ qua đường. Dù cái cách chúng tôi mua nồi cá kho thường làm các Mệ há hốc, không biết nói gì vì chỉ hỏi Mệ bán hết nối cá này được chừng bao nhiêu tiền, cái nồi để kho cá mua hết bao nhiêu tiền. Chúng tôi cộng lại rồi đưa Mệ gấp rưỡi, gấp đôi số tiền cá và nồi. Xong bưng cả nồi cá lên xe trong tiếng cười, những cái lắc đầu hết ý của những người phu khuân vác. Ánh mắt Mệ nhìn theo những đứa con ngổ ngáo đọng lại trong ký ức xa quê vẫn không quên được hương vị quê nhà.

 

   Đêm về sáng mày mò ra tủ đá ngoài garager kiếm cá kho ăn cho đỡ thèm. Cá hồi chợ Mỹ miếng miếng như miếng ngói đỏ. Cá này chỉ nướng mỡ hành, cuốn bánh tráng là khả dĩ ăn được. Nếu kho thì chỉ kho với cà chua là ăn được, nhưng ăn như thế ra mùi cá hộp, không phải hương vị đang thèm. Nhìn đến mớ cá Basa fillet, cá này chỉ làm được vài món không đúng hương vị đang thèm như muối sả ớt chiên, hay xào cà ri với nấm mèo, củ hành và miến sợi. Món nướng cho cá basa fillet thì nướng nghệ với rau thì là sẽ ngon lắm, nhưng cũng không phải hương vị đang thèm. Lục tung cái tủ đá ra được mấy chú cá chim vàng, cá này chỉ hấp hành gừng thôi… có con cá triped bass ngắn đòn nên goi là hybrid bass của bạn cho thì quá lớn, cá này không thể ăn một mình vì quá nhiều thịt. Đầu và đuôi của nó nấu canh chua thơm, bỏ ngò ôm cho nhiều càng ngon và ăn với bún. Bộ lòng với gan, bao tử cá đem xào tàu xì là đủ nhậu. Mình cá, nếu đông người ăn thì nướng cuốn bánh tráng cũng tạm ổn. Bằng không làm chà bông để dành ăn cháo trắng cũng ngon…

 

    Hết cách nhưng chưa hết thèm, chưa qua cơn thèm cá kho cơm nóng khi trời mưa giông và đêm dài vô tận. May sao nhớ ra hộp cá mồi, loại cá yellow bass chỉ nhỏ bằng ba ngón tay, thịt của nó rất ngọt và giai nên người đi câu thường dùng loại cá này làm mồi câu chứ không ăn vì xương nó rất cứng và sắc bén; chỉ những người biết ăn cá mới chịu khó bỏ công làm loại cá này để kho tiêu là số một, ăn như ăn cá rô đồng kho tiêu những hôm mưa gió ở quê nhà. Cả hãng chỉ có một bà chị làm chung, chị không xin cá lớn như những người khác mà xin cá yellow bass để kho nước cơm, chấm rau dền, rau mồng tơi luộc là ăn quên thôi… Nói ra chị buồn chứ dân đi câu sợ cá bass vàng như giặc châu chấu vì bầy của chúng rất đông, hôm nào đi câu mà gặp cá bass vàng thì gỡ câu không kịp với chúng. Nhiều người đi câu gặp hôm đàn cá bass vàng vào bờ thì họ bỏ về, không câu nữa vì xương cứng, sợ đám nhỏ ở nhà ăn mắc họng thì câu làm chi.

 

   Đêm dần tàn nhưng thèm bất tử lại tăng lên. Thôi đi bắc nồi cơm vì cần chút nước cơm để kho cá. Hộp cá đông lạnh không lớn nên xả đá cũng nhanh, trụng qua nước sôi với rượu trắng, vài lát gừng sẽ hết tanh; trụng xong ngâm nước lạnh cho da cá giòn lại rồi để ráo. Bắc chảo phi hành tỏi, gốc hành lá cho thơm, nhưng đổ nước vô chảo nấu luôn mười phút, nêm tiêu xay, ớt bằm. Nấu nhừ tử hết rồi lược lại bỏ xác hành tiêu tỏi ớt. Bây chừ mới cho cá đã trụng vô kho lửa nhỏ với miếng đường phèn, ít tép mỡ trụng qua nước sôi, cho nước cơm vô là muốn ăn ngay vì nước cá kho sền sệt, màu cánh gián bắt mắt, thơm hành tỏi mà không lợn cợn xác hành tỏi mới là kho nghệ thuật. Cá kèo kho nước cơm của ngoại ngon hơn kho rau răm. Giờ ngoại xa rồi nên món cá kho nước cơm của ngoại là di sản văn hoá. Bởi đời sau của ngoại chỉ có một bà chị biết món cá kho nước cơm ngon hơn kho rau răm.

   Nồi cơm trong nhà chín tới, thơm mùi gạo mới như tưởng đang ở dưới quê hồi nhỏ. Hôm qua lại là ngày nghỉ lễ Phục sinh, cô cháu gái ăn chay nên luộc cả nồi cải xanh bát ngát, đem đi tiệm neo cho mọi người cùng ăn với nước tương và đậu hũ chiên. Chắc lễ Phục sinh nên ghé cho chú dĩa cải ăn lễ. Nghĩ đến cháu gái biết luộc cải xanh đã hơn bạn bè nó chỉ biết nấu mì gói bằng microway, thích ăn bánh tráng trộn là cái món quái đản của thời nhuộm tóc hai ba màu…

 

   Sáng chưa tỏ mặt người, lờ mờ bóng cây sồi già ngoài khung cửa gió mưa. Tạ ơn trên ban cho lương thực hàng ngày. Sáng nay con bắt đầu một ngày mới với cơm trắng, cá kho và rau luộc như gom hết tinh túy của đất trời vào một bữa ăn nên không dám than phiền vì lẽ ra mùa này ăn con cá nục đầu mùa ở biển Phan thiết mới đúng là con của Ngọc hoàng. Nhưng xa quê mịt mù cố thổ nên ăn cá vàng kho nước cơm trên đất Mỹ đã là một ân sủng trong ngày lễ Phục sinh đã qua mười hai giờ đêm thứ Sáu. Cầu chúc cho hai người bạn cá nục kho còn ở quê nhà được bình an, mỗi lần hai bạn ngang qua Phan thiết mùa cá nục, nhớ đên1 tôi là đủ. Cầu nguyện cho các Mệ trên thiên đàng được yên vui sau một đời lam lũ vẫn vui cười và tốt bụng…

 

Phan

Ý kiến bạn đọc
10/04/202308:22:28
Khách
Đoản văn này làm người đọc nhớ tới tác phẩm "Thương Nhớ Mười Hai" của Vũ Bằng đã một thời làm xao xuyến lòng người.

Nhưng bây giờ cảm giác đó không còn nữa do sống trong một môi trường [siêu tư bản] có quá nhiều vấn đề cần phải theo dõi, tìm hiểu, học hỏi và [khẩn trương] lo liệu [liên lỉ] nếu không muốn bị bỏ rơi, thiệt thòi và đào thải "tàn nhẫn" trong chu kỳ "tôi đi giữa hoàng hôn..."

Cám ơn tác giả đã cho người đọc vài phút thư giãn vì được thả hồn về một khung trời chỉ có trong giấc mơ [và sẽ không bao giờ trở thành sự thực].
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 607,128
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam. Bà tên thật Nguyễn thị Ngọc Hạnh, trước 1975 đã là giáo sư trung học đệ nhị cấp tại Saigon. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979., hiện hưu trí tại miền Đông và vẫn tiếp tục viết. Sau đây là bài bà mới viết về chuyến đi chơi Virginia Beach.
Tôi thật ngỡ ngàng khi anh đưa tôi đến chỗ cha anh đang làm việc, là một ga tàu điện trong downtown. Cha anh đang làm công việc ăn xin với cây gậy và cái nón rách. Một ông lão người Ấn độ lưng đã còng, râu tóc bạc phơ, ăn mặc cũ kỹ nhưng sạch sẽ. Ông lão vui mừng về việc con trai ông đã mua cho ông một phần ăn trưa, là món ông ưa thích nhất nữa chứ.
Giữa cao điểm của “đại ôn dịch” Covid-19, tôi tình nguyện làm việc tạm thời, đáp lời kêu gọi các nhân viên hồi hưu chia sẻ gánh nặng quá tải của bệnh viện. Sau nhiều năm không hành nghề, bỡ ngỡ ban đầu cũng qua. Gặp nhiều đồng nghiệp mới, đa số còn rất trẻ. Trong đó, có một vị luôn luôn tìm cơ hội tiếp cận với tôi. Hơi lạ.Chúng tôi hàn huyên đủ chuyện, dịch bệnh, công việc mới cũ, gia cảnh ...Dần dần trở nên thân thiết.
Nhớ ngày xưa ...liên quan về chuyện buôn bán. Khi tuổi thiếu nữ mười tám trăng tròn, tụi tôi không có tiền, nhịn ăn sáng chắt chiu từng đồng vì mơ ước có chiếc áo dài màu đầu đời…
Người Việt nam tại các tiểu bang khác sau khi thăm California thường hay nói câu Cali đi dễ khó về. Sở dĩ được ca ngợi như thế là vì California cái gì cũng có. Khí hậu thì dễ chịu. Ai thích tắm biển thì chỉ cần lái xe trong vòng từ 5 phút đến 2 tiếng đồng hồ, tùy theo ở gần bờ biển hay trong thung lũng sa mạc. Ai thích đi trượt tuyết thì cũng chỉ cần lái xe trong vòng hai tiếng đồng hồ là lên tới núi. Vì điều kiện thời tiết dễ chịu cho nên rất nhiều người chọn California làm nơi lập nghiệp. Một cái California có mà hầu như không ai muốn, đó là động đất. Tuy vậy tôi có quen một vài người thích động đất. Khi còn ở Vietnam vào thập niên 1980 để chờ đi Mỹ, tôi hay nghe đài tiếng nói Hoa kỳ, VOA, hằng đêm. Năm 1987, khi VOA đưa tin động đất tại Whittier miền nam California, tôi cảm thấy lo lắng không biết người thân có bị hề hấn gì không. Tôi lo lắng cũng cả tháng cho đến khi nhận được thư của ba gửi về báo rằng mọi người bằng an vô sự.
Khi tôi kể câu chuyện này cho các chị trong một nhóm Văn Thơ, mọi người xúm lại đưa ra những giả thuyết khác nhau về sự “biến mất” của Don, thậm chí các chị còn rủ nhau “viết tiếp đoạn kết” cho câu chuyện “tình” vượt đại dương giữa tôi và Don.
Tuổi già được hiểu một cách đơn giản là tuổi về hưu, không còn làm việc nữa. Gần suốt đời theo đuổi công danh sự nghiệp, đấu tranh xây dựng xã hội, kế đến lập gia đình, lo cho con cái, giờ chúng đã trưởng thành và yên bề gia thất, nhiệm vụ xem như đã hoàn thành. Thời gian dành cho tuổi già, cho bản thân không được bao nhiêu. Vấn đề còn lại là sống thế nào cho có ‎‎ ý nghĩa và hạnh phúc trong những năm tháng cuối đời?
Một giọt nước mắt rỏ xuống làm nhòe một chữ trên trang thư. Tôi có lầm lỗi không, khi nói hết sự thực cho Amelia? Không, trước khi nói điều đó, tôi đã suy nghĩ 8 năm trời đằng –đẵng. Bây giờ tôi đang ngồi trên một ghế xếp bên cầu đọc thư con gái; nhưng suốt tám năm, tôi chỉ đứng bên cầu nhìn giòng nước chảy, một tiếng đồng hồ mỗi sáng chủ nhật.
Chồng tôi bị bạo bệnh qua đời được vài năm thì tôi quyết định bán căn nhà cũ và văn phòng địa ốc của anh ấy để dời đi nơi khác, cố quên đi môt dĩ vãng đau thương. Tôi đã quá mệt mỏi với công việc làm ăn mà xưa kia anh ấy luôn gánh vác những phần nặng nhọc nhất. Chồng tôi là một người hiền hòa, hoạt bát rất lo cho vợ con, cho nên sự ra đi của anh ấy đã mang theo không những một chỗ dựa vững chắc cho mẹ con tôi mà cả linh hồn và thể xác của tôi.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017.
Nhạc sĩ Cung Tiến