Hôm nay,  

Chó Tây, Chó Ta

26/09/202405:00:00(Xem: 1695)

 

TG Lê Đức Luận (đứng giữa) nhận giải Danh Dự VVNM 2023
TG Lê Đức Luận (đứng giữa) nhận giải Danh Dự VVNM 2023

Tác giả Lê Đức Luận lần đầu tham dự VVNM với bài “Ngẫm ra mới thấy thèm”. Tốt nghiệp Khóa 1 Trường ĐH/CTCT/ Đà Lạt, trước năm 1975 ông là sĩ quan, làm việc trong Ủy Ban Binh Thư - Tổng Cục/CTCT/QL VNCH – Sài Gòn. Sau năm 1975, Ông bị “tập trung cải tạo” 7 năm. Sang Mỹ năm 1986. Tác giả vừa nhận giải Danh Dự năm 2023. Bài viết ghi lại những mẫu chuyện ngắn về con chó trải dài từ Việt Nam qua đến Mỹ.

*

Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”.  Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
 
Trời sinh ra con chó có được cái tính bẩm sinh: thính tai, thính mũi, khôn ngoan, thân thiện, gắn bó, thủy chung với chủ.  Người ta nuôi chó coi như một bạn đồng hành giúp ích được nhiều việc như: giữ nhà, săn bắt, dẫn dắt người mù… ở Bắc Cực còn bắt chó kéo xe. Ngày nay, một số người nuôi con chó nhỏ để làm cảnh, coi như thú cưng trong nhà vì nó luôn luôn quấn quít, thân thiện, trung thành giúp họ bớt cô đơn và có được những giây phút mơn trớn, vuốt ve, dịu dàng làm bớt đi  những căng thẳng.
 
Mỗi con chó sinh ra đều có một phần số: “chó Tây” có đời sống khác với “chó ta” - “chó ta” được nuôi ở miền Bắc khác con “chó ta” nuôi ở miền Nam.
 
Đọc những truyện ngắn của nhà văn Nam Cao, mô tả “cậu Vàng” của Lão Hạc, “Cái Chết Của Con Mực”… hay Kim Lân kể về “Con Chó Xấu Xí”, ta cảm thấy số phận con “chó ta” sao mà thê lương đến não lòng – dù hết lòng trung thành với chủ, cuối cùng vẫn bị bạc đãi - người ta bán đi hay giết thịt. Thật khốn nạn cho cuộc đời con “chó ta”.
 
Trong văn học cổ Việt Nam còn lưu lại bằng chữ Nôm câu chuyện “Lục Súc Tranh Công” (1): trâu, chó, ngựa, dê, gà, và lợn - viết theo thể “nói lối”. Con chó tranh công với trâu và kể lể với chủ:

Trời đã sinh các hữu kỳ tài/ Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ…
Vốn như đây ốm yếu chân tay/ Cũng hết sức gia trung xem xét …
Kẻ đầu kia, người việc nọ/ Đứa coi ngoài, có đứa giữ trong.
Đêm năm canh con mắt như chong/ Đứa đạo tặc, nép oai khủng động
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống/ Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh…
Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh/ Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc
Bao quản chui gai, lước góc/ Chi này múa mỏ, lòn hang.
Anh trâu sao chẳng biết thương/ Nỡ lại ra lời sanh nạnh…
Ăn thì cơm thừa, canh cặn, môn sượng, khoai sùng
Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều/ Có cũng rằng, không cũng chớ…
Vốn như đây gia tài ủy ký/ Mà chủ không tốn kém đồng nào
Nên không muông coi trước, giữ sau/ Thì của ấy về tay kẻ trộm…”

Con “chó ta” bị hắt hủi, nó phải kể lể như trên. Con “chó Tây” cũng đi vào văn học Âu - Mỹ từ xa xưa, nhưng lại được ca ngợi và tôn vinh qua câu chuyện rất cảm động và thâm thúy sau đây:
 
Năm 1870, Luật sư George Graham West (1830 – 1904) đã đọc một bài bào chữa chỉ có 375 chữ ca ngợi con chó trong vụ kiện của người thợ săn kiện người chăn cừu đã giết con chó của mình. Bài bào chữa có tên “A Tribute to The Dog” đã thuyết phục toàn thể Bồi Thẩm Đoàn và thân chủ ông đã thắng kiện. Sau đó, bài bào chữa này được lưu truyền trong văn học Mỹ và được tờ New York Times bình chọn là bài diễn văn hay nhất thế kỷ. Ngày nay, trước tòa án Warrensburg, bang Missouri người ta dựng tượng đài con chó Old Drum với bài “A Tribute to the Dog” để ghi nhớ một sự kiện lịch sử. George Graham West nổi tiếng trong văn học Mỹ nhờ bài diễn văn này. 
Đọc một đoạn trong bài diễn văn (đã dịch ra Việt ngữ) làm ta suy ngẫm và ngậm ngùi…

… Trên thế gian vụ lợi ích kỷ này, con người chỉ có thể có được một người bạn vô tư không điều kiện, một người bạn không bao giờ rời bỏ ta, không bao giờ vô ơn bạc nghĩa, không bao giờ phản bội, đó là con chó của ta.
 
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta, dù ta giàu sang hay ta nghèo khó, dù ta khỏe mạnh hay ta ốm đau bệnh tật. Nó ngủ dưới nền đất lạnh, bất chấp giá rét mùa đông hay bão tuyết, miễn sao được ở gần ta. Nó vẫn hôn vào bàn tay ta dù ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vào những vết thương và những chỗ ta đau đớn khi va chạm với sự tàn bạo của cuộc đời. Nó canh giấc ngủ cho ta khi ta là kẻ khốn cùng cũng giống như khi ta là một ông hoàng.
.
Khi tất cả bạn bè đều rời xa ta, riêng con chó thì ở lại.
.
Khi ta mất hết của cải, thân bại danh liệt, thì tình yêu thủy chung của con chó đối với ta vẫn ngời sáng như ánh mặt trời xuyên thấu chín tầng mây.
.
Nếu chẳng may ta bị cuộc đời ruồng bỏ, rơi vào cảnh không bạn bè không nhà cửa, thì đối với con chó trung thành, không có một đặc ân nào cao cả hơn là được ở bên cạnh ta, để bảo vệ ta chống lại những hiểm nguy, chống lại kẻ thù.
.
Và đến lúc cuộc đời ta kết thúc, thần chết rước ta đi và thân xác ta nằm dưới lòng đất lạnh, khi người thân bạn bè đưa tiễn đã quay về để tiếp tục bận rộn với cuộc sống của họ, thì con chó cao quý vẫn còn nằm bên nấm mồ ta, đầu gục xuống giữa hai chân, đôi mắt đau buồn nhưng vẫn mở to cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết.”
 
Đọc những truyện kể về con chó, tôi nhớ đến “con Đớm” nhà tôi. 
 
Năm đó bà chị dâu của tôi có bầu trên năm tháng, anh tôi xin một con chó con của nhà ông Lý Bản về nuôi, gọi nó là “con cún”, trông nó mũm mĩm rất dễ thương, nhưng lại làm nhiệm vụ “dọn bãi” cho đứa con sơ sinh của anh chị - mỗi lần bà chị dâu gọi: “cún… cún… chậc…chậc…” Nó  lăng xăng chạy đến ngoắc đuôi lia lịa “dọn bãi” một cách cần mẫn, tận tình – tôi thấy nó hèn hạ và dơ dáy! Cho nên mỗi lần nó đến gần, tôi cho nó một đá - đuổi đi… Nhiều lần như thế, nó biết phận, đứng xa xa, nhìn tôi với ánh mắt lấm lét, nhưng cái đuôi vẫn ve vẩy hững hờ. Hình như nó mong đợi tiếng tôi gọi nó. Nhưng chưa bao giờ! Rồi nó lặng lẽ bỏ đi…        
 
Khi đứa con của bà chị dâu lên hai, con “cún” không còn làm nhiệm vụ “dọn bãi” nữa. Lúc này thân hình nó tròn trịa, cao to, hai tai vểnh lên, hai đớm trắng trên mi mắt rõ nét, trông rất ngộ. Anh tôi đặt tên cho nó “con Đớm” và bắt đầu huấn luyện cho nó săn chuột, canh giữ chuồng gà, không để chồn, cáo vào bắt gà ban đêm. Ban ngày, khi trải lúa ra sân phơi, “con Đớm” nằm đuổi bọn gà đến ăn lúa. Có mặt “con Đớm”, bọn gà không dám bén mảng. Khi nó lang thang đâu đó mà anh tôi gọi: “Đớm… ô… ô! Đớm… ô… là nó chạy đến ngoắc đuôi - chờ lịnh. Nó hiểu và làm được những việc anh tôi sai bảo.      
 Anh tôi thương và quý “con Đớm”, nhưng tôi vẫn còn mặc cảm với nó. Nhưng có một lần con Đớm làm tôi cảm động và thích thú. Chuyện thế này: 
 
Thằng Thương ở trong xóm, nuôi một con chó Vện - con chó này nổi tiếng khôn ngoan và hung dữ - thấy ai lạ là nó nhe răng gầm gừ, như muốn xông đến cắn người ta, nhưng khi thằng Thương tỏ vẻ niềm nở với khách thì nó liền tỏ ra thân thiện, ngoắc đuôi, mừng! Thằng Thương hãnh diện về con Vện của mình, đi đâu cũng dẫn con Vện theo cùng. Một hôm tôi gặp thằng Thương ở đầu ngõ, con Vện vừa trông thấy tôi, nó gầm gừ … Con Đớm từ trong nhà chạy ra đứng cạnh tôi, sủa vang và nghênh con Vện. Thương là thằng ngổ ngáo, chẳng những nó không la con Vện mà còn “sịt… sịt…” chỉ tay cho con Vện xông vào con Đớm. Hai con chó cắn nhau dữ dội. Thằng Thương vỗ tay reo… 
 
Nhưng sau một hồi cắn đấu kịch liệt, con Vện của thằng Thương cúp đuôi bỏ chạy. Thằng Thương tiu nghỉu bỏ đi. Con Đớm chạy lại bên tôi, tôi cúi xuống vuốt ve nó – lông nó ướt đẫm, trên mũi và chân trước bị cắn chảy máu. Tôi vào nhà giã củ nghệ, kêu nó lại, lấy nghệ đắp lên vết thương, nó ngoan ngoãn nằm yên. Từ đó tôi thương con Đớm - đi đâu tôi cũng cho nó đi theo. Và cũng từ đây con Đớm là bạn thân thiết nhất của tôi thời thơ ấu ở làng quê Vĩnh Phú. 
 
Đến một ngày có lệnh diệt chó để ngừa bệnh “chó dại”. Hằng ngày có một toán đi diệt chó, họ rảo quanh làng rình rập, bắt chó… Họ mang theo gậy, búa, và dây thòng lọng. Anh tôi thương con Đớm, anh tỉ tê với nó thế nào mà nó hiểu - mỗi khi nghe tiếng người, nó chạy vào gầm giường trốn biệt. Nó cũng không theo tôi ra khỏi nhà. Nó thoát nạn một thời gian. Nhưng sau đó Ủy Ban Hành Chánh xã ra thông báo: “Nhà nào còn lén lút nuôi chó mà không khai báo, coi như có hành vi phản động.” Hồi đó, ở trong vùng Việt Minh kiểm soát, ai cũng sợ bị ghép vào thành phần phản động hay Việt gian – bị ghép vào hai thành phần này, sớm muộn gì cũng bị cho đi “mò tôm” (2). Bởi vậy, anh tôi đành chỉ chỗ con Đớm trốn cho toán diệt chó. Sáng hôm ấy anh tôi đem đến cho con Đớm đĩa cơm có chan nước thịt và mấy lát thịt heo. Anh tôi vuốt ve nó, nhìn nó ăn, anh tôi khóc! Rồi anh ra khỏi nhà trước khi toán diệt chó đến. Anh tôi không muốn thấy cảnh đau lòng…       
 
Khi toán diệt chó đến, con Đớm chạy trốn dưới gẩm giường, họ xông ngay vào chỗ nó đang trốn. Nó hết đường tẩu thoát… Lúc ấy ở nhà chỉ có mình tôi, tôi nhìn họ hung bạo như quân cướp. Tôi sợ họ như con Đớm đang sợ - nó co dúm lại, run run, không kháng cự. Họ lấy cây gậy dài đè vào cổ, một tên khác đưa dây thòng lọng vào cổ, kéo nó ra… Hai chân trước con Đớm cố bám vào sàn nhà, miệng kêu ẳng ẳng, mắt nhìn tôi như cầu cứu… Tên bắt chó chẳng chút xót thương, hắn lôi xệch con Đớm ra cửa. Khi cái dây thòng lọng siết chặt cổ, lưỡi con Đớm thè ra, không còn kêu được nữa, nhưng mắt nó hướng về phía tôi, ướt đẫm… Nước mắt tôi cứ tuôn ra, tôi khóc nức nở… cho đến lúc bọn họ lôi con Đớm ra khỏi ngõ, tôi kêu lên Đớm ơi trong tiếng khóc nghẹn ngào. 
 
Vào thời đó, ở làng tôi chưa biết ăn thịt chó. Họ giết con Đớm và đem chôn nó bằng cách nào, tôi không được chứng kiến, nhưng cách họ bắt con Đớm lôi đi quá tàn nhẫn. Hình ảnh đó ám ảnh tôi trong một thời gian dài.  Sau này nghe anh tôi kể: - Họ ra lịnh diệt chó để ngừa bệnh dại chỉ là cái cớ - mục đích chính là để ban đêm cán bộ rình rập các nhà địa chủ, phú nông nghe ngóng tin tức, không bị lộ (lúc đó chính sách cải cách ruộng đất bắt đầu ló dạng ở Liên Khu 5). 
 
Năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, Chính quyền Quốc Gia tiếp quản Liên Khu 5. Bấy giờ tôi đã qua thời thơ ấu – tôi rời làng quê ra tỉnh theo việc học hành. Chuyện tiếc thương con Đớm rồi cũng phôi pha theo năm tháng.         
 
Tiếp theo, đời tôi nổi trôi theo vận nước với bao thăng trầm, khổ nhục, vì cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Cho đến một ngày, thời cuộc đẩy đưa, tôi được định cư trên nước Mỹ.      
 
Từ đây, cuộc đời đưa tôi đi vào ngã rẽ mới. Những ngày đầu tiên sống trên đất Mỹ, với tôi không biết bao nhiêu điều lạ lẫm - phải tìm hiểu, học hỏi mới quen dần. Chuyện “con chó ở xứ Mỹ” là một trong những câu chuyện được nghe người ta ví von nhiều nhất: “Xã hội Mỹ xếp hạng đàn bà số một, thứ hai là chó mèo, đàn ông đứng hàng thứ ba.” Chớ có quen tật bạo hành phụ nữ; ngược đãi, hành hạ chó mèo. Loạng quạng phạm vào những điều căn bản đó, cảnh sát còng tay đưa ngay về bót - phải trái: hạ hồi phân giải. Học được điều đó, nên biết thân phận của mình, tôi không dám to tiếng với vợ; tránh xa chó mèo để khỏi mang họa vào thân.
  
Nhưng càng sống lâu trên đất Mỹ, tôi thấy thuơng cho thân phận cho con “chó ta”. Vì thấy con chó Mỹ sướng quá! Con “chó ta” thì: “Ăn cơm thừa, canh cặn, môn sượng, khoai sùng…Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều/ Có cũng rằng, không cũng chớ…” Còn con chó Mỹ được luật pháp bảo vệ. Theo “Texas Penal Code # 420”: Người nuôi súc vật trong nhà phải có bổn phận cho ăn, cho uống, cho chỗ ở. Thiếu một trong các điều nêu trên và cố ý hành hạ, bỏ bê, giết hại chó mèo sẽ bị bỏ tù một năm và số tiền phạt có thể lên tới bốn chục ngàn đô.
  
Thỉnh thoảng báo chí Mỹ đưa tin về những vụ như ông Dennis, ở Tennessee bị bỏ tù 9 tháng vì bỏ đói, bỏ lạnh và xích con chó ngoài vườn cho đến chết. Những tin như thế có làm tôi xúc động, nhưng rồi cũng chỉ thoáng qua vì lúc đó còn nhiều công việc khác phải lo toan, chuyện chó mèo coi như phù phiếm.
  
Đến một hôm, tôi nghe nhiều người “kháo” nhau về chuyện chó - đây là chuyện “chó Mỹ”. Nguồn tin loan truyền rằng: “Một người Việt Nam tỵ nạn, sang Mỹ hơn một năm, chỉ làm công việc dẫn chó đi chơi, đi ị, hốt cứt chó…mà kiếm được tiền mua nhà.”  Ở cái xứ Hiệp Chúng Quốc này, có những chuyện mới nghe rất khó tin, nhưng rồi có thật, nên tôi để ý theo dõi và tìm hiểu… Thì ra chẳng ai xa lạ - thằng Tuất bạn cùng quê với tôi, qua Mỹ theo diện HO3 đã tạo nên câu chuyện này.
        
 Hôm gặp nhau ở Cali, nó mời tôi về nhà chơi, đãi đằng cơm nước chu đáo. Tôi chăm chú nhìn căn nhà, tuy không lớn lắm, nhưng có sân trước, vườn sau, cây trái sum suê, mát mẻ, êm đềm. Tôi biết nó có được cơ ngơi như thế này là nhờ công việc “dẫn chó đi chơi, đi ị...” đúng như người ta đã “kháo”. Nhưng chẳng lẽ hỏi hết ngọn ngành, tôi tế nhị, nói:
 
- Mày giỏi thật!
 
- Giỏi giang gì - trăm chuyện cũng nhờ con chó. Nó trả lời.
 
- Thì tao cũng nghe thiên hạ nói thế, nhưng chưa biết công việc cụ thể thế nào? Mày có thể kể cho nghe, được không?
 
Nó thành thật kể hết đầu đuôi: - “Khi mới sang đây, gia đình tao được hưởng trợ cấp xã hội, lại được cho thêm tiền Food Stamps - đủ sống. Hai đứa con đi học được xe đưa đón, ăn trưa ở trường miễn phí, tao đi học ESL. Vợ tao muốn có thêm chút tiền mua sắm này nọ, nên xin vào làm nhà hàng, mỗi tháng kiếm được năm, sáu trăm. Với tao như thế là Thiên Đàng. Nhớ lại những ngày cơ cực trước đây, tao thầm cảm ơn nước Mỹ đã cưu mang. Nhưng phải tính chuyện tương lai, khi hết được hưởng trợ cấp xã hội, phải lo tìm việc, nên hằng ngày sau giờ học ESL, tao đi tìm việc đó đây, thì vận may đưa đến: chiều hôm ấy trên con đường vắng, tao gặp một bà già Mỹ, một tay chống gậy, một tay cầm dây dắt chó. Con chó của bà to và khoẻ, nó cứ lăng quăng chạy nhảy, cái dây xích đã kéo ra hết cỡ, nó vẫn muốn chạy xa hơn, kéo bà già xiêu xiêu muốn ngã và trông bà có vẻ mệt lắm, tao bèn xổ tiếng Anh mới học được: - May I help you? Bà già vừa thở vừa đưa đầu dây xích cho tao. Lúc này tao muốn kêu con chó trở lại. Tiếng Việt mình thì gọi “ô... ô…” hay “chấc…chấc”, còn tiếng Mỹ không biết nói làm sao, tao bèn dùng thứ ngôn ngữ “ba rọi”- tao lấy tay ngoắc ngoắc, miệng kêu chấc…chấc… rồi nói: - come here. Ấy vậy mà con chó hiểu, nó chạy đến bên tao, ngoắc đuôi, mừng, rồi nhảy cẩng lên người tao. Tao bế nó vuốt ve, nó nằm yên. Bà già Mỹ nói: “Hai ngày mới cho nó ra ngoài chơi một lần, nên mỗi lần được ra khỏi chuồng nó chạy nhảy lung tung - tên nó là Johnny - cứ kêu tên là nó chạy về.”       
 
Thằng Tuất nhấp ngụm nước, tiếp tục kể:
 
- Bà già gọi: “Johnny, go home”. Con chó nhảy ra khỏi tay tao, lon ton chạy trước. Bà già quay sang hỏi tao: “Nhà anh ở đâu?” Tao cho bà ta địa chỉ. Mặt bà ta có vẻ vui, bả nói: “Vậy là rất gần nhà tôi”. Rồi bả hỏi tao đủ thứ chuyện: về gia cảnh, về lý do được định cư ở Hoa Kỳ và cuộc sống hiện tại ra sao? Tao kể hết sự thật. Bà ta tỏ ra xúc động. Bà nói rất nhiều, nhưng tao chỉ hiểu đại ý. Khi về trước cổng nhà, bà mở ví đưa tao hai chục đô, tao không nhận, bà nài nỉ, nhưng tao nhất định không nhận. Tao cúi xuống, đưa bàn tay ra, con Johnny đưa chân trước lên bàn tay tao như kiểu bắt tay từ giã. Tao đứng lên, chào bà với câu vừa học được – “Bye bye, see you tomorrow.” Bà ta nở nụ cười thân thiện, rồi bảo: - “Nếu anh không bận việc, mỗi ngày đến đây dẫn Johnny đi chơi vài giờ, tôi sẽ trả thù lao 20 dollars.” Tao OK liền. Ngày hôm sau tao đến, bà vui mừng, chỉ tao cách dẫn chó đi chơi ở nơi nào và chỉ cách hốt cứt chó khi con Johnny làm xấu. Thế là từ đó tao có cái nghề mới “dẫn chó đi chơi… đi ỉa…” kiếm mỗi tháng gần năm trăm đô.  
 
Thằng Tuất nheo mắt, cười cười, hỏi tôi:
 
- Ở Mỹ có nhiều chuyện “khó tin mà có thật”, đôi khi “làm chơi mà ăn thiệt”. Mày có thấy như vậy không?
 
- Chỉ có mày may mắn, chứ tao cày bở hơi tai mới kiếm được đồng tiền.
 
Nó kể tiếp: - Một hôm dẫn chó đi chơi về, tao thấy vườn cỏ nhà bà cao, tao ngõ ý cắt giùm cho bả. Bà ta bảo: “Trước đây có thằng Xì, cứ hai tuần đến cắt cỏ một lần, mỗi lần nó lấy 30 đô, nhưng cả tháng nay không thấy nó trở lại, có lẽ nó về xứ. Bây giờ anh muốn giúp tôi thì lấy máy cắt cỏ trong kho ra cắt, tôi sẽ trả tiền công như thằng Xì. Tao Ok liền! Tao cắt cỏ xong còn dọn dẹp, tỉa cây gọn gàng, sạch sẽ. Tao làm việc cần mẫn, bà ta thích lắm, khi ra về bả đem cho tao lon coca với 40 đô, nhưng tao chỉ lấy 25 đô. Tuần sau, bả giới thiệu cho tao cắt cỏ hai nhà bên cạnh, cứ thế tiến lên… thêm mấy nhà. Thế là bây giờ tao có hai nghề: “cắt cỏ và dẫn chó đi chơi”, mỗi tháng kiếm trên ngàn đô. Tao dành dụm gần một năm, có được số tiền kha khá, gặp lúc nhà hạ giá, điều kiện dễ dàng, chỉ cần “down” 10% là có thể mua được nhà. Thế là tao liều mua căn nhà này với giá dưới trăm ngàn.
 
Ngồi nghe nó kể mà thấy thèm, lúc đó tôi ở tiểu bang Maryland, xin được việc làm trong tiệm 7- Eleven, lương 6 đô/ một giờ, chuyện mua nhà chỉ là giấc mơ - chắc phải chờ đến kiếp sau. Nhưng trong lòng vẫn có cái ước mơ và hy vọng - biết đâu cũng có được cái may mắn như nó, nên tôi hỏi:
 
- Hai cái việc này có dễ tìm không?
 
- Tìm việc cắt cỏ không khó lắm, nhưng cái việc “dẫn chó đi chơi…” phải tùy cái duyên, cái nghiệp. Nó trả lời như thế, rồi kể tiếp:
 
- Mấy ngày đầu tao dẫn chó đi chơi, dân ta nhìn tao với con mắt thiếu thiện cảm. Họ bảo tao “học làm sang”. Nhưng khi biết tao “dẫn chó thuê”, họ thông cảm. Nhưng khổ nỗi, con Johnny, thấy người Việt là nó sủa vang trời. Tao chửi thầm trong bụng: “bố khỉ, chó mà cũng kỳ thị chủng tộc…” Nhưng không phải thế, một vài người nó lại tỏ ra thân thiện, như hôm gặp thằng Hóa, một Phật tử thuần thành, nó ngoắc đuôi, mừng! Cũng hôm ấy, đi một đoạn đường gặp thằng Phong, dân Bắc kỳ, mới đi lễ nhà thờ ra, con Johnny lại sủa vang, tao lại chửi thầm: “con chó này kỳ thị tôn giáo” Nhưng cũng không phải thế. Có người nó thân thịện, có người nó sủa vang. Cuối cùng tao khám phá một điều kỳ diệu nơi con chó: hễ người nào không ăn thịt chó thì con Johnny tỏ ra thân thiện; ngược lại những người đã ăn thịt chó thì con Johnny tỏ ra căm thù, tránh né và sủa không ngừng.
  
Về lại Maryland, tôi cố lân la với mấy ông bà già dẫn chó đi chơi, may ra tìm được cái “Job thơm” như thằng Tuất, nhưng khi tôi đến gần, mấy con chó nhảy dựng lên, sủa vang trời. Nhớ lại chuyện thằng Tuất kể: “con chó căm thù những nguời đã ăn thịt đồng loại của nó.” Thế là tôi không còn hy vọng gì với cái nghề “dẫn chó đi chơi…” Vì trước đây, đã mấy lần theo bạn bè xuống Ngã Ba Ông Tạ nhậu thịt chó. Bấy giờ tôi nghiệm ra cái nhân duyên và nghiệp quả trong kiếp nhân sinh. Tôi an phận với công việc hiện tại của mình.
  
Rồi ngày tháng trôi qua, tôi đến tuổi về hưu, các bạn già đồng hương rủ nhau họp mặt ở nhà thằng Tuất. Bây giờ thằng Tuất giàu sụ, mua nhà mới, rộng rãi thênh thang. Bạn bè gặp nhau, mừng vui kể lại những thăng trầm trong cuộc sống và rồi “chuyện chó” được nhắc đến. Một ông bạn kể về con chó của đứa cháu ngoại. Ông bảo: “con chó Mỹ, nó sung sướng đến độ tôi phải ganh. Này nhé: nó được đưa đi tỉa lông, cắt móng, khám bịnh định kỷ; ăn toàn đồ organic, ngủ thì chiếu hoa nệm gấm… Khi con cháu đi du lịch xa gởi chó vào khách sạn chó (animal shelter), bịnh thì vào nhà thương chó (Animal Hospital), có bác sĩ thú y chăm sóc. Tính ra tiền chi phí nuôi con chó còn nhiều hơn tiền già của tôi” Rồi ông ta kết luận: “Sau khi chết, nếu có sự đầu thai, tôi sẽ xin đầu thai làm con chó.”
  
Một ông già ngồi cạnh, cười khẩy và nhắc nhở:
 
- Ông cẩn thận khi xin đầu thai. Phải xin ghi vào sổ là “chó tây” ở trên nước Mỹ mới được. Chứ để lọt vào danh sách “chó ta” mà ở Việt Nam thì bỏ mẹ cuộc đời!
 
 
LÊ ĐỨC LUẬN 
 
(1) Khuyết danh)
(2) Bỏ vào bao bố rồi nhận chìm xuống sông, rạch.
 
 
 
        
 
 
 
 
 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

         

         

         

 

 

Ý kiến bạn đọc
30/09/202420:03:49
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
29/09/202421:36:42
Khách
"Ăn thì cơm thừa, canh cặn, môn sượng, khoai sùng" (LSTC)
Chó ăn như vậy nhưng vẫn còn hơn nhiều nguời dân VN đuợc cộng sản "giải phóng" trong 20 nam, 1976-1995, và nguời sống duới chế độ cộng sản Bắc Hàn, TQ. Nhiều nguời VN sau 1975 không có cơm thưà canh cặn mà ăn, chỉ có bo bo, khoai sùng, gạo mốc, thức ăn mà truớc 1975 dành cho gia súc, mà phải sắp hàng cả ngày mới mua đuợc. Tù cải tạo còn tệ hơn. Dân sống ở Bắc Hàn có nguời đói quá phải bới phân của trâu bò luợm những hạt bắp trâu bò ăn không tiêu, rửa rồi nấu ăn. Thời Buớc Nhảy Vọt 1960, 20 triệu dân TC bị chết đói, một số vì ăn cỏ không tiêu sình ruột mà chết. Như vậy cho thấy không có đổi mới thì thực phẩm của dân trong các nuớc Cộng sản thua cả thức ăn gia súc .
Khi Cộng sản vào chiếm miền Nam năm 1975, họ trừng phạt miền Nam quá đáng, như bỏ đói tù cải tạo cho ăn thấp hơn nuôi gia súc như heo nuôi trong trại cải tạo, tù cải tạo ăn thức ăn của heo bị đánh đập dã man vì heo qúy hơn nguờị Chủ truơng trừng phạt toàn thể dân miền Nam qua tịch thu tài sản, hạn chế tiền đuợc đổi làm dân chúng bần cùng, phải bán hết tài sản cho dân và cán bộ miền Bắc và tịch thu tất cả luá gạo sản xuất tại miền Tây, bắt dân phải ăn bo bo, bột mì của Nga viện trợ, và khoai sắn mốc là trừng phạt dân miền Nam quá đáng. Hom qua 29 thang 9, CNN loan tin Giáo Hoàng lên án Israel trừng phạt không tuơng xứng (dispproportionate retaliation) là vô đạo đức nhưng truyền thông Mỹ bưng bít tin này, tra Google không thấy, chỉ thấy báo của Catholic và Google AI đăng lên mà thôi.
Google AI:
"All war is immoral
Pope Francis has said that all war is immoral, and that disproportionate retaliation is also immoral"
Báo National Catholic Reporter:
"Pope Francis on Sept. 29 strongly condemned the disproportionate use of military force for the purposes of retaliation and said that any nation that violates this principle is "immoral."
26/09/202413:14:55
Khách
Cam on tac gia bai viet hay qua kinh gui den tac gia va gia dinh nhung loi cau chuc tot dep nhat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 504,618
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời. Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê: - Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? - Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao....
Để cục pin mới vô, chỉnh lại, cái đồng hồ tik tok tik tok đều đặn. Lần đầu gặp nhau, khi Cô Ba đi làm về. Dựng chiếc Yamaha Dame màu xanh cây trong sân, bước vô cửa, thấy anh ngồi trong phòng khách đang nói chuyện với anh rể. Phép lịch sự, gật đầu chào một cái rồi te te thẳng vô phòng trong, thay đồ. Thời gian đó cô không ưa gì người Mỹ. Sau đó thì anh tới nhà gặp anh rể, gần như mỗi buổi chiều, có khi còn cầm bó bông Lay-ơn màu đỏ, đưa tặng cô, mà không nói tiếng nào. Ngó những cành bông đã nở bung ra, không còn cái nụ chúm chím nào hết mà thấy mắc cười. Má cô nói -Chàng Mỹ thiệt thà bị mấy cô bán bông trong mấy cái ki-ốt dụ bán những bó bông sắp sửa tàn rồi
Nhạc sĩ Cung Tiến