Hôm nay,  

Tôn Sư Trọng Đạo

10/3/202405:00:00(View: 1639)
bo-sach-vvnm 
Tác giả đã tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên. Là con một gia đình H.O., đến Mỹ năm 1995, khi đã 27 tuổi. Nguyễn Khánh Vũ hiện là kỹ sư điện toán cho một công ty tại Arizona và đã góp nhiều bài viết xúc động. Bài viết dưới đây bày tỏ lòng biết ơn và tinh thần Tôn Sư Trọng Đạo của tác giả đối với vị thầy đáng kính của mình.
 
Trong văn hóa người Việt chúng ta, bàng bạc khắp nơi, chúng ta không khó để tìm thấy những lời dạy của tiền nhân về cách sống biết ơn những người làn thầy, về tinh thần tôn sư trọng đạo.
 
Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.
Không thầy đố mày làm nên

Muốn sang thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ, phải yêu kính thầy.

Tháng năm dãi dầu nắng mưa,
Con đò tri thức thầy đưa bao người
 
Trong xã hội, từ thuở dựng nước, tiền nhân đã đặt người làm thầy vào vị trí rất cao trọng, chỉ sau vua, trong thứ tự Quân Sư Phụ. Với tôi, người làm thầy mang một thiên chức cao cả, vì người làm thầy có thể giúp định hình tương lai cho nhiều thế hệ tiếp nối.
 
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có thân mẫu là người cả đời chỉ biết đến phấn trắng, bảng đen, có thân phụ vừa là sĩ quan quân đội vừa là huấn luyện viên của Cục Chính Huấn, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tình yêu dành cho việc giảng dạy đến với tôi thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng.
 
Tôi tham gia giảng dạy từ khi còn là một sinh viên của trường Đại học Bách Khoa Saigon, rồi trở thành một giảng viên của trường đại học này, và rồi tôi lại tiếp tục tham gia giảng dạy Việt ngữ cho các thế hệ trẻ tại hải ngoại gần hai mươi năm qua. Dù đã quen với công tác này trong một thời gian dài nhưng tôi chưa bao giờ có suy nghĩ, dù chỉ trong thoáng chốc, có ngày tôi sẽ trở thành một huấn luyện viên võ thuật, dạy võ cho các em nhỏ dẫu tôi cũng đã theo đuổi tập luyện môn Hiệp Khí Nhu Đạo (Aikido) từ khi còn là một sinh viên đại học.
 
Người đã làm tôi thay đổi hoàn toàn suy nghĩ này, cùng dấn thân tham gia vào công tác mới mẻ này, là vị thầy đáng kính Đặng Thông Phong, người đã dành hết tâm huyết cuộc đời mình cho Aikido.
 
“Aikido là một kỹ thuật tự vệ và chiến đấu rất hiệu quả với đòn thế đa dạng. Những vệ sĩ ở Nhật Bản thường sử dụng Aikido khi bảo vệ các yếu nhân. Anh em phải chuyên cần luyện tập để có thể điều chỉnh sao cho phù hợp với bản thân, để có thể sử dụng đòn thế một cách hiệu quả nhất. Và nhất là anh em cần làm gương cho các môn sinh.”, thầy thường nhắc nhở chúng tôi.
 
Đây cũng là điều mà ba tôi thường nhắc nhở các chị em tôi, “khi tụi con dạy con cái, cách thức hiệu quả nhất, hay nhất chính là làm gương sáng cho tụi nhỏ. Tụi nhỏ sẽ nhìn mà làm theo”.
 
Thật vậy, cuộc đời võ thuật của thầy là một tấm gương sáng chẳng những cho riêng tôi mà cho hàng ngàn môn sinh đã có may mắn được đi theo thầy. Hãy cứ nhìn vào một vị đại võ sư tuổi, nay đã ngoài 80, tuy lực đã phần nào bất tòng tâm, nhưng tâm huyết cống hiến cho Aikido vẫn sôi sục trong huyết quản, vì lời tuyên thệ trước tổ sư và môn phái, vì lời hứa danh dự với bào huynh của mình, mà đem lòng yêu mến Aikido. Xin hãy một lần đến với võ đường Tenshinkai để được nhìn thấy một cụ già, tuy tuổi đã vượt xa thất thập cổ lai hy, tuổi xưa nay hiếm, vẫn hăng say, ân cần chỉnh sửa đòn thế cho học trò, mà vững tâm, mà kiên trì trong việc tập luyện.
 
Ôn Lại Những Bài Học Mà Thầy Đã Dạy Tôi. Biết ơn tiền nhân là bài học đầu tiên mà tôi được học. Theo tôi đây là bài học bắt buộc mà thầy muốn tất cả các môn sinh phải thuộc nằm lòng. Bài học này được thường xuyên nhắc nhở qua những kỷ niệm thường niên, nhất là vào ngày truyền thống Tenshinkai. Trong các lời phát biểu của thầy, thầy luôn nhắc đến công lao và sự nghiệp của tổ sư Morihei Ueshiba. Thật cảm động và trang trọng khi chứng kiến một vị võ sư với mái tóc đã bạc trắng màu thời gian, quỳ cung kính dâng hương lên tổ sư. Theo tôi, chẳng có bài học nào sống động hơn, chẳng có ngôn từ nào có thể đẹp hơn về bài học biết ơn tiền nhân bằng hình ảnh này.
 
“Chúng ta có trách nhiệm gìn giữ những chứng tích lịch sử của môn phái mà tổ sư đã ưu ái dành cho Aikido Việt Nam”, thầy nhắc nhở anh em môn sinh.
 
“Thầy ở tuổi này, chẳng còn mưu cầu gì cho bản thân. Thầy cố gắng duy trì võ đường để anh em có nơi luyện tập, gìn giữ truyền thống và phát triển môn phái”, thầy tâm sự trong một dịp thầy trò có dịp hàn huyên. Tôi hoàn toàn cảm nhận được nỗi ưu tư của thầy tôi, nỗi ưu tư chưa làm tròn hết trách nhiệm, chưa trả đủ món nợ ân tình với tổ sư và vị thầy sáng lập Aikido Việt Nam, thầy Đặng Thông Trị, bào huynh của mình, dẫu cả cuộc đời thầy đã cống hiến trọn vẹn cho công cuộc phát triển môn phái.
 
Tính kỷ luật là bài học thứ hai mà tôi được học. Cứ nhìn cách các môn sinh ngồi ngay hàng thẳng lối, cách các môn sinh chào nhau trong tinh thần tương kính, ta có thể dễ dàng nhận ra tính kỷ luật đã được thiết lập và duy trì tại tất cả võ đường trực thuộc hệ phái Tenshinkai. Hãy quan sát cách các môn sinh tuy tuổi còn rất nhỏ nghiêm trang cúi chào tổ sư trước khi lên sân hay rời sân, cách thức các em kính cẩn đưa cả hai tay lãnh nhận đai và văn bằng, chúng ta không khó để nhìn ra bài học mà thầy muốn rèn luyện cho tất cả môn sinh.
 
Tính kỷ luật là yếu tố hết sức quan trọng, nhất là khi hướng dẫn đòn thế cho các em còn nhỏ tuổi, vì một sai sót nhỏ, dù do bất cẩn, có thể dẫn đến chấn thương, hay gây ra tâm lý e sợ, hoang mang trong các em hoặc sẽ tạo ra một nền tảng kỹ thuật cơ bản sai lệch cho các em. Thực tế cho thấy một đứa trẻ có tính kỷ luật sẽ cẩn thận hơn trong việc học, chuẩn bị chu đáo hơn cho các kỳ thi. Một đứa trẻ kỷ luật của ngày hôm nay sẽ dễ dàng hơn để trở thành một kỹ sư có trách nhiệm mai sau trong công việc, một y tá, một bác sĩ tận tụy với bệnh nhân, hay một người thầy hết lòng vì học sinh. Quốc gia hưng thịnh khi có những công dân gương mẫu, kỷ luật làm rường cột.
 
Sự tự tin là bài học thứ ba mà thầy đã truyền đạt cho tôi. Vào đầu mỗi buổi học, thầy thường yêu cầu hai môn sinh, thường là ở đẳng cấp huyền đai, xung phong ra sân trình bày lại những kỹ thuật mà thầy đã dạy trong các buổi học trước. Điều tưởng chừng đơn giản này có lẽ đã làm cho rất nhiều môn sinh, trong đó có tôi, lo lắng, hay e ngại. Lo lắng vì không biết mình có nhớ đòn thế không, e ngại vì sợ rằng mình có thể thực hiện sai kỹ thuật trước mặt thầy và bạn bè đồng môn. Sự tự tin sẽ được xây dựng, lòng quyết đoán sẽ được hình thành từ những bài tập tưởng chừng như đơn giản đó.
 
Việc tham gia các buổi biểu diễn Aikido, theo thiển ý của tôi, cũng không nằm ngoài bài học này. Ngoài việc chúng ta có thể kiểm chứng những gì mình đã học, thì sự tự tin là điều bắt buộc phải có, khi chúng ta trình diễn trước mặt thầy, các bạn bè đồng môn, các quan khách, các phụ huynh và nhất là trước mặt các môn sinh, những học trò mà chúng ta chăm sóc, hướng dẫn.
 
Những Kỷ Niệm Của Riêng Tôi. Với tôi, luôn luôn là một điều thú vị và phấn khích khi được trực tiếp xem thầy biểu diễn những kỹ thuật điêu luyện trong những dịp lễ lớn của môn phái như ngày Giỗ Tổ, ngày truyền thống đầu năm Tenshikai, hay trong những dịp kỷ niệm như ngày Giỗ thầy Đặng Thông Trị, vị khai sáng Aikido tại Việt Nam, cũng là bào huynh của thầy, dẫu tôi đã có may mắn được tập luyện dưới sự hướng dẫn, dạy bảo của thầy hàng tuần.
 
Nhìn những bước di chuyển nhẹ nhàng, thanh thoát nhưng lực kết thúc đòn thế đầy uy lực khiến chẳng những riêng tôi mà tất cả khán giả đều trầm trồ, thán phục khi chứng kiến thầy quật ngã những môn sinh cao lớn, khỏe hơn, trẻ hơn vài chục tuổi. Một đôi lần tôi may mắn được thầy gọi ra làm uke cho thầy. Khi thấy tôi có ý nắm tay thầy không chặt, thầy cười nhẹ nhàng trách “Nắm mạnh vô, sợ làm ông già đau hả?”. Tôi chắc chắn tất cả anh em môn sinh đều dễ dàng nhận ra kỹ thuật tuyệt vời hòa với nội công thâm hậu nếu chí ít một lần được làm uke cho thầy, dù thầy đã ở vào tuổi xưa nay hiếm.
 
“Đây có thể là chuyến đi tập huấn xa cuối cùng của thầy”, thầy tuyên bố trước toàn thể môn sinh tại đạo đường trung ương Tenshinkai, khi thầy nhận lời mời sang chấm thi huyền đai cho một võ đường bên Úc châu. Và tôi đã cố gắng sắp xếp công việc để chí ít được một lần theo chân thầy. Tôi không thể nào cho phép mình một lần nữa vuột mất cơ hội này trong cuộc đời làm môn sinh của tôi.
 
Và tôi thật sự hạnh phúc với quyết định này. Đi theo thầy để được một lần nữa chính thức xem thầy biểu diễn những kỹ thuật điêu luyện. Đi theo thầy để được một lần nữa nghe thầy giảng dạy lại những kỹ thuật cơ bản, mềm mại, uyển chuyển nhưng đầy uy lực của môn phái Tenskinkai mà đôi khi tôi vì lý do này lý do khác vẫn chưa nhìn ra sự tinh tế trong những đòn thế này. Đi theo thầy để được có cơ hội gần thầy, nghe thầy chia sẻ những kỷ niệm, những dự tính cho Tenshinkai trong tương lai. Đi theo thầy để được tận mắt nhìn thấy sự yêu mến, kính trọng thầy của các môn sinh phương xa, qua đó tôi có thể hiểu ra, nhận ra rõ ràng hơn sự may mắn của việc được thầy chỉ dạy hàng tuần mà chuyên cần tập luyện hơn.
 
Rời quê nhà, theo chân thân phụ sang tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ, tôi cũng đã kịp chuẩn bị cho mình một chút vốn liếng về Hiệp Khí Nhu Đạo khi được luyện tập tại một võ đường tọa lạc trong sân Tao Đàn, Saigon. Dẫu đã là môn sinh của hệ phái Tenshinkai hơn 6 năm nhưng vào thời đó tôi hoàn toàn không được biết đến tên tuổi của hai vị đại võ sư, Đặng Thông Trị, Đặng Thông Phong vì tên của hai vị hoàn toàn không được phép nhắc đến trong các buổi giảng dạy, huấn luyện Aikido. Với tôi, đây thật sự là một sự bất kính, sự vô ơn mà Cộng sản đã cố gắng tạo ra nhằm xóa bỏ lịch sử phát triển Aikido tại miền Nam Việt Nam.
 
Đặt chân đến Hoa Kỳ trong khi mọi sự vẫn còn bỡ ngỡ, bận rộn với công việc mưu sinh, việc học hành, Aikido hoàn toàn nằm ngoài tâm trí tôi cho đến ngày tôi tốt nghiệp Thạc Sĩ tại đại học Cal State of Long Beach, ngành điện toán.
 
“Anh muốn đi tập Aikido không? Tụi mình giờ xong chuyện học hành rồi.”, một người bạn đồng khóa đề nghị. Và đó là lần đầu tiên tôi được nghe lại ba từ “Ai-ki-do” sau hơn tám năm đặt chân đến Hoa Kỳ. Tôi đã có hân hạnh được lần đầu diện kiến vị thầy đáng kính của Aikido Việt Nam tại đạo đường trung ương.
 
“Anh muốn thầy cho anh học lại từ cấp đai nào?”, thầy ân cần hỏi tôi với một nụ cười hiền lành, sau khi xem qua tấm bằng chứng nhận đệ nhất huyền đai của tôi.
 
“Kính thưa thầy, con xin thầy cho con được học lại từ đai trắng như các môn sinh nhập môn”, tôi xin thầy. Và đó là sự khởi đầu cho những ngày tháng tôi được phép tập luyện dưới sự dìu dắt, dạy bảo của thầy.
 
Thay Cho Lời Kết. Tôi khắc trong tâm những chia sẻ của thầy về ước muốn xây dựng một nhà thờ tổ, nơi thầy có thể lưu lại những hình ảnh, những kỷ vật, lưu lại một quá khứ hào hùng, đáng trân trọng của lịch sử hình thành và phát triển Aikido tại quê nhà mà trọn cuộc đời thầy đã dâng hiến, gắn bó.
 
Tôi mạn phép chia sẻ lại, có lẽ với tất cả anh chị em đồng môn, trong bài viết ngắn ngủi này thay cho lời kết.
 
Viết xong ngày 3 tháng 8 năm 2024.
 
Brian Nguyễn Khánh Vũ
 
 
 

Reader's Comment
10/6/202420:26:02
Guest
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 510,289
Cô sinh ra trong một gia đình trung lưu trí thức. Ba cô là đại úy không quân. Lương của ông không nhiều, nhưng đủ nuôi vợ và đàn con sáu đứa. Như đa số những phụ nữ thời bấy giờ, mẹ cô chỉ ở nhà quán xuyến gia đình. Mọi việc sẽ thuận lợi theo dòng đời, nếu không có hai biến cố đột ngột xảy ra...
Tác giả tên thật là Phương Nguyễn. Sinh năm 1957 tại Phủ Cam, Huế, là cựu học sinh trường Jeanne D'Arc. Bà hiện ở tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington. Tác giả vừa nhận giải Đặc Biệt năm 2023. Bài viết dưới đây là câu chuyện buồn về sự ra đi bất ngờ của người con trai, đồng thời là lời tri ân sự chăm sóc tận tình của bệnh viện Harborview – Seattle, USA.
Hằng năm vào khoảng cuối tháng năm khi trăm hoa đua nở, khí hậu ôn hòa vừa nắng ấm vừa mát mẻ, thì khắp nơi xứ cờ Hoa, học trò các cấp lớp được nghỉ hè, rời mái trường thân yêu một thời gian. Khi ấy các cô cậu có thể đi du ngoạn với gia đình, tìm việc làm ngắn hạn trong mùa hè, hay chỉ nghỉ ngơi thỏa thích bù thời gian vất vả thức khuya dậy sớm suốt niên học.
... Từ vài chục năm nay, chúng ta đã đồng ý với sự phân chia thành ba thế hệ người Việt đang sống ở nước ngoài: (1) Thế hệ thứ nhất gồm những vị đã thông tạo tiếng Việt vả chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi. (2) Thế hệ một rưỡi gồm những người rời khỏi quê nhà trong tuổi thiếu nhi chưa rành rẽ chữ và tiếng Việt. (3) Người trẻ được sinh ra ở quê hương thứ hai. Theo nhận xét của tôi thì việc đọc sách và báo Việt không có được sự hân hoan tương đương như trên. Tôi không dám viết ra đây phần trăm ít ỏi đã lượng định, xin quý độc giả tự làm việc này. Vậy ta phải làm gì để Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Việt? Ta hãy làm thế nào mà chợt có dịp may, một người thế hệ sau cầm quyển sách hay tờ báo đọc thử, nếu họ hiểu thì mới có cơ may họ sẽ tiếp tục đọc sách báo Việt. Nếu không hiểu thì họ sẽ từ giã, rất khó sẽ thử lại một lần nữa. Việc làm này cũng giúp cho toàn dân Việt nhìn rộng ra thế giới...
Vì quê nhà đổi chủ, nên bà con mới phải lưu lạc xứ người. Ma cũ là người qua trước. Ma mới là người đến sau, “trâu chậm uống nước đục “. Những người may mắn thoát được trước ngày tan hàng, đã ổn định đời sống từ lâu. Kế đến là những thuyền nhân vượt biên sớm. Còn người kẹt trong các trại tù cải tạo mới được qua sau này, hầu hết toàn con cháu bà Cả đọi, được chính phủ Mỹ cho qua theo diện tị nạn, đa số đều lớn tuổi, tiền bạc eo hẹp. Bởi vậy khi có người lân la hỏi thăm có nhận giữ trẻ không? Họ sẽ trả tiền mặt. Tôi như chết đuối vớ được ván.
Năm 2009 sau chuyến đến Nam Cali thăm gia đình và bạn hữu, tôi viết bài tường thuật cuộc phiêu lưu của tôi tại Orange County, lên Las Vegas, San José, trước khi rời Cali trở về nhà. Ly Kai, biệt danh ông kẹ đi bán chính thức, chủ xị của nhóm Văn Khoa tại đây với Mỹ Dung thường tổ chức mấy bữa họp mặt mỗi khi các bạn từ xa đến đây chơi. Trở về nhà, tôi viết một bài về chuyến du hành năm đó và gửi cho các bạn đọc cho vui, Mỹ Dung khuyên tôi gởi bài này cho báo Người Việt. Mấy tuần sau, bài «Mưa Cali» được NV đăng báo, và cô MC Hồng Vân đọc trên đài VOA tiếng Việt.
... Chúng tôi chia tay, ra về với những nụ cười trên môi. Emily, cô bạn Mỹ tánh tình thẳng thắn, chân thật đã giúp tôi hiểu được những cú sốc văn hóa Việt trên đất Mỹ. Emily đã giúp tôi hiểu được sự khác nhau giữa hai nền văn hóa Việt Mỹ, nhờ buổi nói chuyện này mà chúng tôi trở nên hiểu nhau hơn và thân nhau hơn.
Ông Đại biết con Hoài Hương vẫn còn quá trẻ, tính cách chưa định hình, bản dạng giới tính còn lừng khừng, cứ để một thời gian nữa thì nó sẽ tự phát triển và hoàn thiện, lúc ấy thì nó như thế nào thì đó đúng thật là bản tánh của nó. Hãy chấp nhận nó, yêu thương nó như nó là vậy! Đừng vì cái sĩ diện hão của mình mà cưỡng ép con Hoài Hương phải theo cái ý chí chủ quan và cực đoan của mình. Ông bảo bà Thu: “Bà thương con thì phải chấp nhận tình yêu của con, hãy sống vì hạnh phúc của con chứ không thể vì cái danh tiếng của bà”...
Sau những lần ốm đau bịnh hoạn rề rề mà không rõ lý do vào những tháng cuối hồi năm ngoái, Trang bỗng dưng trở nên chậm chạp và nhút nhát hẳn đi. Đầu óc cũng ù lì kém tinh nhanh, làm trước quên sau. Ai dặn cái gì cũng chẳng nhớ. Phải chăng đó là triệu chứng của bịnh… “đã toan về già”? Cách chữa đúng nhất là phải có một người bạn đời để nâng đỡ và chăm sóc nhau trong những lúc trái gió trở trời như thế. Nhưng nếu rủi người bạn đời của mình sức khoẻ không thành vấn đề mà lại bị bịnh (nói theo phim bộ của Tàu) là “si khờ người già” trước mình thì chỉ có nước cùng nhau nắm tay trực chỉ… viện dưỡng lão cho rồi chứ con cái làm sao có thì giờ mà chăm sóc cho nổi. Ôi! Viển ảnh cuối đời người sao mà thê thảm.
Qua báo chí, tôi được biết Yellowstone là một vùng đất rộng nằm ở Tây Bắc Tiểu bang Wyoming, nơi mà cách đây mấy ngàn năm đã có sự hoạt động của một núi lửa lớn với miệng núi đường kính dài 30km. Người ta tưởng tượng rằng nếu giờ này mà nó thức giấc thì cả miền Bắc Mỹ sẽ không còn. Tôi ao ước có dịp sẽ đến đây để tận mắt nhìn những kỳ tích đẹp và hùng vĩ mà núi lửa đã lưu lại sau hơn mấy ngàn năm ngưng hoạt đông, nhưng chưa bao giờ có cơ hội. Năm nay, nhân ngày lễ Memorial, con gái tôi đã sắp xếp xin nghỉ một tuần để lấy tour cùng đi thăm danh lam thắng cảnh này.
Nhạc sĩ Cung Tiến