Hôm nay,  

Tiếng Việt Tại Hải Ngoại Sau 50 Năm và VYEA - Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn

21/01/202500:00:00(Xem: 2060)
Phan Nữ Lan 5

Thầy cô và ACE thiện nguyện viên, thế hệ thứ hai và vài vị thuộc thế hệ thứ nhất, của Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam Vùng HTĐ (VYEA)

 

 Phan Nữ Lan (Tháinữlan/TháiLan) sinh trưởng tại Đà Lạt, Việt Nam. Cô làm công việc giảng dạy Pháp ngữ và Anh ngữ và biên, phiên dịch ở Việt Nam cũng như khi đã định cư tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Cô còn là cộng tác viên của báo Trẻ magazine, Bút Việt, Nam Úc Tuần Báo, Á Châu Thời Báo, báo Người Việt và Việt Báo. Bài viết nói về những sinh hoạt phong phú và bổ ích trong việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại.

 
***
 
Suy từ câu nói bất hủ của học giả Phạm Quỳnh, "Truyện Kiều còn thì... nước ta còn”, thì người Việt nơi hải ngoại phải nói, Tiếng Việt còn thì nước Việt còn”. Mà theo nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, "Sống trên đời sống cần có một tấm lòng”, mình có được tấm lòng thì ý nghĩa cuộc đời mình không lẽ để gió cuốn hết đi. Cho nên tấm lòng quý nhất là giữ gìn và bảo tồn Văn hóa cùng Việt Ngữ của quê hương.
 
Như bài hát vỡ lòng “Tôi yêu tiếng nước tôi”, vào đời mà biết đọc biết viết cũng nhờ các cô các thầy của những ngày đầu tiên ấy.  Nay ở hải ngoại, cũng nhờ những thầy cô có tâm, có lòng yêu tiếng Việt mà từ những phương trời luân lạc xa quê hương, người Việt nhìn ra thế giới có thể hãnh diện là thế hệ con cháu của mình vẫn còn gìn giữ tiếng mẹ đẻ và những phong thái Việt, tục lệ Nam. Quan trọng nhất, cũng nhờ các bậc cha mẹ khổ công  thúc đẩy con cái ráng học nói tiếng Việt và dạy dỗ chúng đừng quên công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.
 
Sống ở cái xã hội đa nhiêu hợp chủng, nỗi lo mất tiếng mẹ càng canh cánh bên lòng những nhà làm văn hóa và giáo dục Việt. Thế nên từng ngày một, trên khắp cộng đồng người Việt hải ngoại đã mọc lên nhiều trường tiếng Việt trong những khu Little Saigon bên cạnh các chợ Việt Nam, các quán Phở, mà ngay cả ở những ngoại ô thưa người, cũng có các lớp tiếng Việt cho trẻ em Việt học ê a.
 
Việc truyền bá duy trì tiếng Việt và văn hóa Việt từ lâu vẫn là ăn cơm nhà vác ngà voi, nhưng các thầy cô đều tình nguyện cung cúc hàng chục năm trời cho nghĩa vụ này. Thật là đáng quý cho những tấm lòng của họ.
 
Một thí dụ là gia đình thầy Chử Bá Anh và nữ sĩ Vi Khuê, xưa hai người từng là hiệu trường trung học Văn Học & Văn Khoa, Đà lạt trước 1975. Họ tiêu biểu cho lớp tiền phong trong công việc gìn giữ nguồn Việt, qua các hoạt động với hội Giáo Dục Trẻ Em Vùng Hoa Thịnh Đốn (VYEA). Hội hoạt động liên tục từ 1977 cho đến khi thầy CBA qua đời năm 1996 vả rồi tiếp tục với các cộng sự viên và các con cái của ông bà, cho đến năm 2023 thì ngừng hẳn.
 
Mỗi năm trong suốt 46 năm ấy, "Lớp Hè Tiếng Việt" của VYEA với sự đóng góp của hàng trăm cha mẹ, hơn 50 thầy cô, đã dạy tiếng Việt chữ Việt cho khoảng 400 học sinh tuổi từ 6 đến 18 tuổi. Ngoài việc dạy chữ, các thầy cô bỏ rất nhiều công tạo các sinh hoạt cho các trẻ em trong không khí đùm bọc của một nhà Việt Nam.
 
Vùng thủ đô Hoa Kỳ có khoảng dưới một trăm ngàn người Việt gốc Mỹ, một con số khá lớn nhưng không bằng các vùng Orange County hay San Jose ở California, hoặc ở Houston Texas, chưa kể ở Âu Châu như Ba Lê, Luân Đôn, ...
 
Theo Thanh Trúc, RFA (2015) Nối gót tiên phong từ Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn, nhiều trường Việt ngữ vùng Virginia và phụ cận lần lượt thành hình. Bà Lê Tống Mộng Hoa, trước là giáo viên, từng dạy tiếng Việt nhiều năm trong Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn: “Ngoài trường Việt ngữ của Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam, gọi tắt là VYEA, còn có trường Việt ngữ Thăng Long, trường Việt ngữ nhà thờ St.  Michael, trường Việt ngữ Nhà Thờ Các Thánh Tử Đạo, Lớp Việt ngữ chùa Hoa Nghiêm, và Nhà Việt Nam sau này cũng có mở Lớp Việt ngữ. Trong các hoạt động của Hướng Đạo thì các huynh trưởng cũng có dạy Việt ngữ cho các em.
 
Tiểu bang Maryland có lớp dạy tiếng Việt của Giáo Xứ Mẹ Việt Nam và trường Việt ngữ Hoài Hương. Maryland, tuy ít mà cũng được khoảng 100 em theo học. Rồi miền Đông Bắc Hoa Kỳ với dân số Mỹ gốc Việt đông hàng thứ ba nước Mỹ, Texas là tiểu bang có số người Việt đông hàng thứ hai. Năm 1986, tại thành phố Houston, Texas, ba nữ sinh viên Vân Anh, Nguyệt và Huyền, đứng ra thành lập trường Việt ngữ Hùng Vương. Hiện tại trường Việt ngữ Hùng Vương đã yên vị trong Đại Học Cộng Đồng Houston với số học sinh thay đổi từ 400 đến 450: 
 
Không chỉ trường Việt ngữ Hùng Vương với bề dày sinh hoạt gần ba thập niên, nhiều lớp Việt ngữ khác trong thành phố Houston cũng góp mặt đều đặn hàng tuần. Theo ký giả Dương Phục, giám đốc đài Saigon Houston:
 
“Các cơ sở tôn giáo, các chùa các nhà thờ đều có lớp Việt ngữ. Những lớp Việt ngữ này bền bỉ vì có số học sinh đều đặn. Hiện giờ có một số những người trẻ hoặc là giáo chức cũng mở những trung tâm dạy Việt ngữ không những cho trẻ em mà cả cho lớp lớn tuổi nữa. Bây giờ giới trẻ dù đi vào đại học rồi mà vẫn muốn thông thạo Việt ngữ hơn mặc dù đã sử dụng Việt ngữ cũng tàm tạm trong sinh hoạt gia đình. Cho nên có những lớp Việt ngữ dạy cho lớp 12 trở lên hay cả những sinh viên đại học. Đây là điều cho thấy giới trẻ bây giờ không phải đi học vì bố mẹ bắt ép đi học mà họ tình nguyện đi học.
 
Dallas hay Austin cũng là những thành phố có đông người Mỹ trong tiểu bang Texas, mỗi nơi đều có từ ba đến bốn trường dạy tiếng Việt lớn nhỏ. Tại Dallas, trường Văn Lang được coi là một trung tâm Việt ngữ lớn và đông học sinh trong thành phố.
 
Từ Texas ngược lên California với cộng đồng cư dân Việt đông hàng đầu nước Mỹ, chủ tịch Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California là cô Nguyễn Khoa Diệu Quyên, giáo viên Toán và năm nay thêm môn Việt ngữ tại trung học Pacifica, học khu Garden Grove: Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ giới thiệu bộ sách giáo khoa từ lớp Mẫu Giáo cho tới Lớp Năm, đã được ấn hành cũng như đã được quý thầy cô tại các Trung Tâm Việt ngữ sử dụng để dạy tiếng Việt cho các em mỗi cuối tuần. Ngoài ra còn có bộ sách lịch sử bằng tranh, có hai phần tiếng Việt và tiếng Anh, để dạy cho các em lịch sử bằng những hình ảnh dễ nhớ và có thể học hỏi nhanh hơn. 
 
Các cơ sở tôn giáo, các chùa các nhà thờ đều có lớp Việt ngữ. Những lớp Việt ngữ này bền bỉ vì có số học sinh đều đặn. Hiện giờ có một số những người trẻ hoặc là giáo chức cũng mở những trung tâm dạy Việt ngữ không những cho trẻ em mà cả cho lớp lớn tuổi nữa”.
 
Theo bà Huỳnh Thị Ngọc, một trong những người sáng lập Trung Tâm Văn Hóa Hồng Bàng: “Trung Tâm Văn Hóa Hồng Bàng chính thức thành lập năm 1993, niên khóa 93-94, trên 20 năm rồi. Đầu tiên hết chỉ có 60 em học sinh thôi, thầy cô giáo thì trên dưới 10 người. Qua chặng đường dài hai mươi mấy năm thì số học sinh bây giờ xấp xỉ trên dưới 800 em. Tất cả thành viên của Hồng Bàng khoảng 80 người, giáo viên đứng lớp là 72 người.  Tất cả chúng tôi đều là những thành viên thiện nguyện. Chúng tôi sinh hoạt tự túc, sách cũng tự túc in ra”.
 
Trong lúc Bắc California, thành phố San Jose, không thua với những trường Việt ngữ tầm cỡ như Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang, thì quá trình thành lập trường tiếng Việt ở Sacramento, thủ phủ bang California, cũng phát xuất từ nỗi lo con trẻ Việt quên tiếng Việt.
 
Ở Australia có Vietnamese Cultural Schools Association, Liên trường Văn Hóa Việt Nam, là hệ thống 6 trường Việt ngữ với tổng cộng trên hai nghìn học sinh thuộc sáu quận hạt của thành phố Sydney, tiểu bang New South Wales.  Nhiều em học dưới Tiểu Học xong lên đây học 4 năm, nhìn chung qua những thông tin từ các trang mạng tôi  thấy các em học được, không có kiểu học lấy lệ do cha mẹ bắt ép.
 
Về những trường Việt ngữ lâu năm ở Canada thì không thể không nhắc đến trường Văn Hóa Việt Nam thuộc Trung Tâm Văn Hóa Giáo Dục Hồng Đức ở thành phố Montreal. 
 
Trở về với thầy cô Chử Bá Anh / Vi Khuê và các hoạt động của họ tại thủ đô Hoa Kỳ, tôi thu thập được một số tài liệu thú vị, xin trích lại dưới đây.
 
Năm 2006, cô Phương Anh, phóng viên đài RFA có nhận định như sau.
 
Đối với đại đa số những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, thì một trong những vấn đề ưu tư nhất là làm sao để con cháu có thể nói, đọc và viết tiếng Việt, mặc dù chúng sinh trưởng tại nước ngoài hay rời quê hương từ khi còn quá nhỏ. Nỗi ưu tư này rất lớn vì trẻ học hành, sinh hoạt với các bạn đồng trang lứa trong khung cảnh văn hóa và ngôn ngữ nước sở tại mỗi ngày hàng chục giờ. Cho dù ở nhà có nói tiếng Việt, thì nhiều khi các em cũng không tha thiết vì lẽ những chuyện mà ông bà nói thì ngày càng xa lạ với những gì các em thật sự quan tâm.
 
Điều may mắn cho cộng đồng là luôn luôn có những người nhìn thấy vấn đề và sẵn sàng bỏ thì giờ tiền bạc cùng công sức vào việc vun bồi văn hóa Việt Nam cho giới trẻ. Cố gắng ấy đã có từ những ngày đầu cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại được thành lập, và trong hơn 30 năm qua, chưa bao giờ dừng lại.
 
Điều làm cho những ai quan tâm đến vấn đề xúc động và lạc quan, là cố gắng ấy ngày càng được nhận biết, được hoan nghênh và được tham gia tích cực.
 
Một hình ảnh điển hình của tiến trình vừa mô tả là hoạt động của Hội Giáo Dục Trẻ Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn mà Phương Anh trình bày cùng quý thính giả trong khuôn khổ Câu chuyện hàng tuần kỳ này, nhân dịp Hội vừa tổ chức lễ bế mạc khóa hè Việt Ngữ 2006 hôm đầu tháng tám.
 
Được biết, trong suốt 30 năm qua, lớp Hè tiếng Việt VYEA được tổ chức vào mùa hè và hoàn toàn miễn phí. Các học sinh chỉ phải đóng một số tiền lệ phí tượng trưng, giúp cho nhà trường trong việc mướn trường ốc và in bài vở cho các em. Các thầy cô giáo đều là những tình nguyện viên đến lớp sau mỗi ngày làm việc. Buổi tối là giờ sum họp của gia đình, giờ nghỉ ngơi, nhưng họ đã hy sinh thời gian quý báu đó để giúp cho các em.
 
Cô Lê Tống Mộng Hoa, trong Ban chấp hành của Hội cho biết thêm: “Trong mùa hè, các em được nghỉ nên đi học tiếng Việt khoẻ hơn. Lớp học tiếng Việt với tinh thần vừa học vừa chơi...không khí trong lớp rất vui, các em tới trường lại được gặp các em khác để nói tiếng Việt.  Điều quan trọng nhất là ban ngày các em không phải đi học, nên buổi tối các em đến trường tràn đầy nghị lực. Do đó, tuy chỉ học 6 tuần, nhưng sau 6 tuần thì thầy cô cũng như phụ huynh thấy các em tiến bộ rõ rệt.”
 
Được biết, tuy gọi là khoá Hè, nhưng để chuẩn bị cho phần giảng dạy, Hội đã thành lập ban tu thư, để chuyên lo phần giáo trình cho các thầy cô và học sinh. Các giáo trình được soạn thảo rất kỹ lưỡng và in ấn rất chu đáo. Thi sĩ Vi Khuê, một người trong ban tu thư phát biểu: “Ngày xưa thì làm đơn giản, nhưng càng ngày thì càng tiến lên hơn, đã trải qua nhiều giai đoạn. Mấy năm sau này, chúng tôi soạn bộ sách hướng dẫn từ cấp 1 đến cấp 7. Chúng tôi soạn những tập sách về căn bản tập nói và tập viết tiếng Việt, theo tinh thần của quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư, quyển sách xưa nhưng được coi là gương mẫu cho trẻ em.
 
Chương trình được soạn bằng ca dao, tục ngữ. Nhưng muốn cho hợp thời thì tôi đã viết bằng thơ, ca dao, hợp với thời đại mới. Gần đây, chương trình phải làm sao cho phù hợp với trẻ em ở Hoa Kỳ. Ngoài việc trau dồi ngữ vựng, các em còn được đọc những truyện ngắn và truyện tranh, những bộ hình để dậy bằng video, projector…
 
Các em học hát, học hát rất quan trọng, vì khi học hát các em được học mặt chữ, dễ nhớ được lâu dài hơn. Đó là đối với các em nhỏ. Còn các em lớn thì chúng tôi soạn bài bằng Anh ngữ, nhưng khi các em trả lời thì bằng tiếng Việt, như thế các em hiểu tiếng Anh và trả lời tiếng Việt, chứ không dậy tiếng Việt hoàn toàn.”
 
Theo lời của tiến sĩ Chử Nhị Anh, tuy đã có những giáo trình thật kỹ lưỡng, soạn thảo rất công phu, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, ông nói: “Khó khăn thứ nhất là làm thế nào để dạy cho các em ngữ vựng, một số văn phạm, và đọc được một số bài văn. Do đó, cách đây vài năm, chúng tôi thay đổi, thay vì nhồi hết vào mùa hè thì chia thành 6 năm. Tức là nếu các em muốn học hết thì các em phải trở lại vài năm.  Khó khăn khác là các em có thể đánh vần được ngay, nhưng  chẳng hiểu gì cả. Các em rất nhanh, đánh vần rất mau, nhưng phải làm sao cho các em hiểu được và thích nói tiếng Việt, thì chúng tôi vẫn chưa làm được một cách thật hiệu quả vì dẫu sao các em cũng sinh ra ở Mỹ. một vài cha mẹ có kể chuyện là các em về Việt Nam một vài tuần thì tự nhiên các em nói ra những cái các em học được từ lớp hè. Chúng tôi cũng hy vọng là khi nào các em có dịp đi chơi đâu đó hay lớn lên thì vốn tiếng Việt của các em sẽ tự động có.”
 
Về phần cô giáo Hoàng Lan Hương, đã tham gia tình nguyện dạy cho lớp hè Việt Ngữ này được 18 năm, thì cho rằng:“Tôi thấy được tầm quan trọng của việc gìn giữ tiếng Việt nên tôi đã tình nguyện giúp. Phần lớn các em sinh ở Mỹ, gia đình, bố mẹ nói tiếng Việt với các em, các em hiểu được nhưng phần đọc và viết thì không được dạy ở nhà vì phần lớn bố mẹ bận rộn, lại không có chương trình rõ ràng chỉ bảo cho các em. Thành ra, tôi nhận thấy chương trình này rất tốt, buổi đầu tiên chưa biết đọc, biết viết, nhưng chỉ sau 6 tuần mùa hè là các em bắt đầu đọc được những câu thường như “ba đi làm”, những em ở lớp cao hơn thì có thể làm văn.”
 
Để duy trì và nuôi dưỡng tiếng Việt, khoá Hè Việt Ngữ của Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn còn mở thêm lớp 7, cho những em đã tốt nghiệp. Thầy giáo Hoàng Việt Dũng cho biết: “Sau khi học xong lớp 6 thì các em ra trường, nên chúng tôi muốn giữ các em lại nên mới lập ra lớp phụ giáo. Tức là các em học xong lớp 6 thì có thể vào lớp này. Nói là phụ giáo nhưng thực ra chỉ giúp cho các cô sửa bài, chấm bài, nếu cần làm gì trong lớp thì các cô giáo mượn làm.”
 
Ông Phạm Đăng Lương, có con 13 tuổi và đã theo học tại đây 5 năm qua, cho biết lý do tại sao cứ mỗi mùa hè đến, ông lại cố gắng mỗi tối chở con đến lớp. Ông nói: “Để cho nó nói được và nói được tiếng Việt, ở nhà thì làm luận văn thêm… nó cũng quên chút chút, nhưng ở nhà vẫn nói tiếng Việt với cháu thành thử nó vẫn giữ được tiếng Việt.”
 
Bà Nguyễn Thị Lý, mẹ của em Huỳnh Trung Đà Giang, cô nữ sinh đã đoạt giải nhất trong kỳ thi viết văn về người Mỹ gốc Á châu do Đài truyền hình NBC tổ chức, thì kể lại việc em đã học tiếng Việt nơi đây như thế nào: “Nó học lớp hè ban đầu nó không hề biết viết văn cho thành câu.  Đến khi hết lớp, thì nó có thể viết những bài luận. Tôi phải công nhận rằng họ dạy rất tiến bộ.”
 
Một phụ huynh khác, anh Nguyễn Minh Dũng, có hai con đang theo học lớp 7 phát biểu: “Mình là người Việt Nam, muốn cho con mình có thể nói, đọc và viết tiếng Việt như mình thì đó là lý do chính mà tôi đã đưa hai cháu đi học.  Tôi thấy chương trình này rất hiệu quả vì con tôi năm đầu tiên đi học về có thể đọc và viết được, nói chuyện rành rọt hơn. Ban ngày thì phải làm bài ở nhà, phải tập viết, làm luận, nói chuyện với nhau. Tôi thấy kết quả rõ ràng lắm.”
 
Nhân đây, Phương Anh cũng liên lạc với em Nguyễn Minh Duy, 14 tuổi, hiện là phụ tá cho cô giáo lớp hai ở khoá Hè, em nói: “Con học 3 năm và phụ giúp 3 năm. Ở nhà mẹ con đã dạy con chút ít rồi, nhưng khi con học con thích nhất là học về lịch sử Việt Nam, vì lần nào cũng có cái mới, học hoài không hết, rồi gặp bạn bè… Trong lớp, con phụ cô giáo ôn bài lại, chấm bài cho cô, phụ học sinh.”
 
Còn em Nguyễn Thùy Vi, 16 tuổi, thì nói: “Con học 4 năm và phụ hai năm. Con học được ngữ vựng và đọc truyện như truyện “Chiếc bó đũa”.  Con thích tới đó vì được gặp bạn bè ở lớp hè.”
 
Tôi có đứa con, cũng học đến lớp 7 ở trường này, khi nó về Việt Nam, nó nói là nó người Việt Nam, vì nói được tiếng Việt, nó cảm thấy đó là nước của nó. Điểm chính là mọi người yêu tiếng Việt Nam và muốn duy trì tiếng mẹ đẻ cho thế hệ mai sau.
 
Với cuộc sống nơi xứ người đầy bận rộn, thời giờ thật quí hiếm, thế nhưng, vì lòng nhiệt huyết muốn duy trì ngôn ngữ mẹ đẻ cho thế hệ mai sau, nên dẫu cho vất vả đến đâu chăng nữa, các thầy cô vẫn hy sinh đến lớp đều đặn trong suốt 6 tuần lễ. Phụ huynh Nguyễn Minh Dũng nói: “Họ cực hơn cha mẹ nữa, vì họ đi làm xong phải đến thẳng chỗ làm, đến khuya mới về, trong lúc đó thì con cái chúng tôi đã ăn uống đầy đủ rồi mới tới trường. Chúng tôi luôn nhớ đến các thầy cô, nhờ sự hy sinh tận tụy của các thầy cô hướng dẫn nên con cái chúng tôi mới nói được tiếng Việt.
 
Được biết, ngoài việc dạy tiếng Việt, để hướng dẫn thêm cho các em về văn hoá Việt, trong hai năm vừa qua, trường còn tổ chức ban nhạc hoà tấu Phượng Hoàng dưới sự hướng dẫn của nhạc trưởng Phạm Dương Hãn và cô Hoàng Kim Chi, quy tụ các em từ 16, 17 tuổi trở xuống, với các nhạc cụ dương cầm, vĩ cầm, sáo, cello, trống để trình diễn những bài nhạc dân ca Việt Nam.
 
Đến đây, mời quý vị nghe một đoạn trong bài Hòn Vọng Phu do các em trình tấu: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên) Vì sao mà suốt 30 năm qua, khoá Hè tiếng Việt của Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn lại được duy trì lâu bền như thế, cô hiệu trưởng Nguyễn Phan Trinh tâm sự: “Tôi có đứa con, cũng học đến lớp 7 ở trường này, khi nó về Việt Nam, nó nói là nó người Việt Nam, vì nói được tiếng Việt, nó cảm thấy đó là nước của nó. Điểm chính là mọi người yêu tiếng Việt Nam và muốn duy trì tiếng mẹ cho thế hệ mai sau.  Phụ huynh cũng như thầy cô giáo ai cũng có đời sống rất bận rộn nhưng đến mùa hè lại đến với nhau. Cái sức mạnh để cho mọi người đến với nhau, đó là ai cũng có một tấm lòng nhiệt tình.”

Phan Nữ Lan 2

Các thầy cô thuộc giai đoạn thứ nhất (1976-1996) của Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn

 

Phụ huynh Nguyễn Nhật Huy, vốn từng dạy học tại quê nhà, cho cảm nghĩ:
 
Ở một số tiểu bang ở Mỹ, tôi được biết có nhiều nhà thờ, nhiều chùa tổ chức lớp dạy tiếng Việt cho trẻ em người Việt. Đây là việc làm rất đáng hoan nghênh. Nghĩ, giá mà nhà nước Việt Nam chú ý đến mãng này, nghị quyết 36 về người Việt Nam ở nước ngoài chú ý đặt nặng vấn đề này (**) thì tương lai tiếng Việt sẽ không bị mai một qua thời gian.  Nhưng đó chỉ là ý nghĩ vì ngay ở trong nước, vẫn có nhiều chủ trương phá hoại tiếng Việt mà Bùi Hiển là một điển hình, sách giáo khoa tiếng Việt sai be bét mà chính phủ không lên tiếng thì hy vọng, chỉ là hảo huyền!.
 
Một cộng tác viên kỳ cựu của thầy cô CBA/VK là cô Lê Tống Mộng Hoa, tiếp nối thầy dẫn dắt hội Giáo Dục trong năm đầu sau buổi giao thời năm 1997, đã viết về công trình giáo dục này, nhân dịp chào mừng năm thứ 40 hoạt động, như sau.
 
Lễ Mãn Khóa Lớp Hè Tiếng Việt Năm Thứ 40 của hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn (Vietnamese Youth Education Association of Washington D.C.- VYEA) đã hoàn tất thành công mỹ mãn tại trường Trung Học Robert E. Lee 6540 Franconia Road, Springfield, Virginia với hơn 600 người tham dự.
 
Theo lời cô Chử Nhất Anh: “Ngày hôm nay, VYEA là một trong những hội đoàn lâu đời nhất của Cộng Đồng Người Việt tại hải ngoại. Cùng chung một tiếng nói, một mục đích và với sự cố gắng không ngừng nghỉ, có lẽ trong trái tim chúng ta ít nhiều cũng rộn rã một niềm vui vì đã và đang cùng nhau góp một bàn tay xây dựng một môi trường tốt đẹp với Lớp Hè Tiếng Việt, các lớp học đặc biệt cũng như những sinh hoạt lành mạnh cho con em chúng ta vào mỗi mùa hè.”
 
Sau đó cô đã dâng lời cảm tạ đến người cha khả kính, tài ba, rộng lượng, sáng lập viên của trường Việt Ngữ Hoa Thịnh Đốn- VYEA; cố giáo sư Chử Bá Anh và thân mẫu, nữ sĩ Vi Khuê, trưởng ban Tu Thư của trường VYEA cùng tất cả các Cộng Tác Viên thiện nguyện khác.  Cô giáo Lê Tống Mộng Hoa, người cao niên duy nhất còn sót lại trong nhóm nhỏ các Thầy Cô dạy lớp tiếng Việt thuở ban đầu chập chững ấy, đã chia sẻ tâm tình bằng giọng nói run run đầy xúc cảm, cô nói: “…  Lễ mãn khóa năm nay đánh dấu một quá trình hoạt động bền lâu và tích cực của hội GDTEVN-HTD- VYEA, một chặng đường dài với nhiều đổi thay, mất mát cũng như thành tựu lớn lao; sinh nhật thứ 40 của trường VIỆT NGỮ HOA THỊNH ĐỐN-VYEA.
 
Vì dấu ấn đặc biệt và quan trọng nầy nên tôi, với tư cách là cựu Hiệu Trưởng của Trường VYEA những năm về trước mạo muội đặt tên cho ngày Mãn Khóa năm nay là: “ Ngày Nhớ Ơn Người” và gởi “Đôi Lời Tâm Tình” như là một “ Nén Tâm Hương” thành kính dâng lên hương linh các thầy cô đã tận tình, tận lực đóng góp công sức cho VYEA mà nay đã cất cánh bay xa về vùng trời miên viễn một cách đột ngột, bất ngờ khiến cho chúng ta, những người còn lại khó nguôi ngoai niềm thương tiếc, lòng cảm phục!
 
Năm 2016 nầy cũng đánh dấu 40 năm tròn mà cố G.S. Chử Bá Anh- người sáng lập ra VYEA- và đã dốc lòng vun xới, tưới tẩm, chăm sóc.  “khu vườn Giáo dục Văn hóa” nầy đã đột ngột lìa trần, bỏ lại khu vườn VYEA hoa tàn, cỏ úa, phải đóng cửa trường, không thể dạy vào năm ấy 1996!
 
Ngoài thầy Chử Bá Anh còn có các thầy cô khác cũng đã ra đi vĩnh viễn, mà nay qua 40 năm, trí nhớ của tôi đã lệch lạc, chỉ còn nhớ được tên vài người như: Cụ Phạm Ngọc Hương, cụ Nguyễn Hữu Phú, ông Nguyễn Văn Sâm, Thầy Chử Tam Anh, cô Nguyễn Minh Ngọc… và hương linh quý vị phụ huynh hoc sinh của trường mà tôi không nhớ tên… Quý vị nầy tuy không còn hiện diện trong các sinh hoạt của Lớp Hè Tiếng Việt nữa nhưng hương linh họ luôn theo dõi, độ trì cho chúng ta – các thầy cô giáo của VYEA- được chân cứng đá mềm, tiếp tục công tác hữu ích, lành mạnh dạy Tiếng Mẹ cho các trẻ em người Mỹ gốc Việt- thế hệ thứ 3, thứ 4, thông minh, sáng trí, học mau, hiểu rộng.
 
Nhân đây cô Mộng Hoa cũng xin gởi đến tất cả các Thầy cô giáo cùng quý vị phụ huynh hoc sinh trường VYEA LỜI CẢM ƠN SÂU XA về sự hy sinh cao quý, thì giờ, công sức, nhân lực, tài lực để cho hoạt động của hội GDTEVN được phát triễn bề ngang lẫn bề dọc, lớn mạnh sau 40 năm.
 
Các cựu hoc sinh của trường VYEA ngày nay đã trở nên các chuyên gia tài giỏi: bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, tiến sĩ kinh tế, luật sư, kỹ sư, dịch thuật gia biết nhiều ngoại ngữ khác nhau và giữ những chức vụ trọng yếu trong xã hội hiện tại ở nhiều quốc gia trên thế giới như Pháp, Anh, Úc, Mỹ, Canada …nhưng các em nầy vẫn nhớ và nói được tiếng Việt rõ ràng, thông thạo, thật đáng mừng!
 
“Quả ngọt” nầy sỡ dĩ có được là nhờ “Nhân lành” do công lao và Tình Thương vị tha của các Thầy cô giáo cùng các bậc phụ huynh đã cho ra không ngừng nghỉ để hỗ trợ, khuyến khich việc học tiếng Việt của các em. Xin CẢM TẠ quý Thầy Cô giáo và phụ huynh trường VYEA! Xin gởi tặng quý Thầy cô và quý phụ huynh VYEA 4 câu thơ ca ngợi Tình Thương của Tôn Nữ Hỷ Khương:
 
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương
Tình người muôn thuở vẫn còn vương,
Chắt chiu một chút Tình Thương ấy
Gởi đến muôn phương, vạn nẻo đường…
 
Xin mời xem một số tài liệu đăng tải trên trang nhà của hội vyea.com
 
Đặc biệt là cuốn Kỷ Yếu kỷ niệm 40 năm hoạt động của hội, có thể xem trực tiếp tại đây:
 
Một lần nữa, dầu đã muộn màng, xin cảm tạ thầy Chử Bá Anh, cô Vi Khuê và gia đình VYEA. Bài viết thô thiển này là một nén nhang để tưởng nhớ người xưa. Cũng xin cảm ơn các thầy cô, các thiện nguyện viên, các trường Việt ngữ, các phóng viên của đài Radio Free Asia.
 
Cho dù VYEA đã ngưng hoạt động, nhưng âm hưởng của Hội vẫn còn vang mãi trong lòng các phụ huynh học sinh với niềm tiếc nuối. Những công trình giáo dục tiếng Việt của hội không bao giờ mất đi, mà vẫn tồn tại trong trí óc các em, và sẽ được tiếp tục truyền đi theo cả chiều rộng không gian lẫn chiều sâu thời gian trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại của thế hệ mai sau.
 
Xin Vinh Danh Hội Giáo Dục Trẻ Em Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn VYEA đã đi tiên phong trong việc giữ gìn tiếng Việt qua bao khó khăn và hy sinh của những ngày đầu.
 
Phannữlan
Dallas, TX
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 208,443
Từ ngày về hưu, Ông Tư thong thả, nhưng buồn! Hằng tuần, vào buổi sáng thứ Bảy, sau ngày xổ số Powerball Lottery, ông thường lang thang trong khu Phước Lộc Thọ, mong tìm gặp các bạn già rủ nhau uống ly cà phê, tán gẫu sự đời, bình luận thời sự chính trị … cho qua thì giờ. Gần mười hai giờ, chia tay các bạn già, ông thả bộ vào một tiệm 7- Eleven gẩn đó mua một tấm vé số Powerball, rồi về nhà ăn trưa.
Miếng ăn là miếng tồi tàn Mất đi một miếng lộn gan lên đầu. Câu nói dân gian trên chắc có lẽ chỉ được áp dụng tại Việt Nam hay những nước chậm tiến trong những năm tháng nghèo đói. Ăn uống là nhu cầu sống còn của con người và vì thế người ta nhiều khi phải đánh mất phẩm giá của mình để tồn tại. Tuy vậy, tôi thấy câu này vẫn có thể áp dụng tại Mỹ, đất nước giàu có nhất thế giới và đồ ăn thì dư thừa.
Một cô bé Mỹ lai Việt, khoảng 12-13 tuổi với mái tóc dài ngang vai quăn tự nhiên, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nâu tròn to, vai đeo một ba lô khá nặng so với thân hình mảnh khảnh của mình, hai tay ôm một em bé còn rất nhỏ chừng hai, ba tháng tuổi, cô bé đứng trong đuôi người nối dài xếp hàng ở trước cửa ngân hàng Bank of America, trên đường Harbor, Garden Grove, California chờ đến lượt mình. Những người đứng chờ phía trước thấy cô bé có con nhỏ bèn nhường chỗ để cô bé được tiếp sớm hơn, ai cũng tò mò nghiêng người nhìn vào bên trong lớp vải quấn đứa trẻ xem thử đứa bé ấy là con gái hay con trai, lớn nhỏ ra sao, có bà người Mỹ đứng sát bên lên tiếng: - Chắc cháu bé mới hơn hai tháng phải không? Còn nhỏ quá bế ra đây làm gì? - Sao không để nhà cho mẹ cháu giữ nó? Khuôn mặt của cô bé một chút ngỡ ngàng, lo lắng nhìn xung quanh không biết phải trả lời ra sao, chỉ yên lặng cúi nhìn đứa trẻ đang say giấc trong tấm khăn hồng êm ấm.
Ngôi nhà nằm ở một vùng ngoại ô, khuất sau những tàng cây cổ thụ, phủ đầy rêu phong và ký ức. Mỗi viên gạch, mỗi góc tường, đều như đang thì thầm câu chuyện về một gia đình đã từng hạnh phúc, ấm êm. Ông Lâm, với mái tóc bạc phơ như sương tuyết và dáng người gầy gò, liêu xiêu theo năm tháng, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế mây cũ ở hiên nhà. Chiều tà buông xuống, nhuộm tím cả khoảng sân, mang theo hơi lạnh se sắt của cơn gió trở mùa, lay lắt những cánh hoa đỗ quyên đỏ thắm trước ngõ, như ngọn lửa nhỏ đang cố gắng níu giữ hơi ấm sắp tàn lụi. Mỗi cơn gió đi qua, ông Lâm lại khẽ rùng mình, không phải vì lạnh, mà vì nỗi cô đơn quạnh quẽ đang bám riết lấy ông từ hai năm nay. Từ ngày người vợ yêu quý của ông về với đất.
Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.
Có những người Cha tôi đã gặp Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi … (KL) Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ. Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).
Trải qua bao thời gian, những người bạn cũ rời xa, những người bạn mới xuất hiện, nhiều khuôn mặt đến, rồi đi, như nước chảy qua cầu. Vậy mà có một khuôn mặt đặc biệt, ở lại rất lâu trong góc trái tim tôi, một nhỏ bạn thật đặc biệt. Đặc biệt, là vì nó là... người Nga. Tôi đã từng có ác cảm với dân tộc Nga, từ những ngày trước năm 1975, là năm đổi đời, đổi hướng tương lai của đa số dân tỵ nạn cộng sản. Ác cảm là vì, giống dân từ một quốc gia xa lạ và rất xa trên bản đồ trái đất, đầu tiên tạo ra chế độ Cộng sản, lại đầu độc cả thế giới qua cái chủ nghĩa Cộng sản ác nhân thất đức.
Thưa anh Don, tôi biết hương hồn anh đang hiện diện quanh quất đâu đây, trong khán phòng này và nghe được những lời tôi nói. Cảm ơn anh đã luôn là người hàng xóm tốt bụng. Anh thường xuyên cắt cỏ cho khoảng sân trước nhà chúng tôi khi cắt cho nhà anh. Không chỉ cắt thôi đâu quý vị, anh còn tỉa rồi thổi bằng máy thổi sạch bóng, từ sát cửa ra vào đến sân xe chạy. Lần nọ, nhà chúng tôi bị bể ống nước, ngập lụt ngoài phòng khách lên tận mắt cá, anh là vị cứu tinh đã khóa nước trước khi chồng tôi kịp về nhà. Bao lần chúng tôi quên đóng cửa “garage” qua đêm, anh luôn nhắn tin cho tôi “Cửa garage nhà chị còn mở đó nhe.” Tôi cảm thấy rất hổ thẹn vì chưa mời anh được một bữa ăn Việt Nam! Tệ thật! Tôi có mua biếu anh hộp bánh vào dịp Noel mấy năm nhưng nhìn lại thấy không đủ so với những gì anh đã làm cho gia đình tôi! Nhưng tôi vĩnh viễn không còn dịp nữa rồi!
Hàng năm, cứ qua giữa tháng Năm là nước Mỹ lại bắt đầu rộn ràng hơn cho ngày lễ hội Memorial Day sắp tới! Các “florist centers” lo chuẩn bị thêm nhiều hoa để cung cấp cho người tiêu thụ, những gian hàng đồ lưu niệm bày biện lắm thứ hơn để bán. Walmart, Krogers tấp nập khách hàng vì có đông người đi chợ cho các tiệc tùng ăn uống chiều hôm đó. Như chúng ta biết, ngày lễ này được long trọng tổ chức vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm nhằm vinh danh những người lính đã xả thân hy sinh trong quân đội Hoa Kỳ. Ngược dòng lịch sử và theo các sử gia thì cuộc nội chiến Mỹ được xem là có nhiều người chết nhất nên những nghĩa trang thành hình từ đấy. Vào mấy năm cuối của thập niên 1860 thì ở nhiều quận, hạt, tỉnh, thành, thiên hạ bắt đầu tới sửa sang, dọn dẹp vệ sinh cho những ngôi mộ của người thân mình, mang theo bông hoa trang hoàng cho các ngôi mộ đó; những chiến binh đã nằm xuống!
Là con trai trưởng trong một gia đình có chín anh em, tôi sống với Mẹ trong hầu hết bảy mươi bốn năm đời mình. Chỉ có hai lần tôi phải xa Mẹ lâu nhất, mỗi lần tám năm, đều liên quan đến nước Mỹ và Mẹ. Lần thứ nhất từ năm 1991 khi Mẹ đi tỵ nạn Hoa Kỳ theo diện H.O. Tôi kẹt lại quê nhà cho đến cuối năm 1998 mới đi đoàn tụ gia đình theo diện ODP. Đi hay ở, một quyêt định không phải dể dàng với tôi lúc bấy giờ. Những năm chín mươi sau những tháng năm sống vất vả, cay đắng và tủi nhục để kiếm sống và tồn tại, đứa con một sĩ quan tù cải tạo, nhờ thời kỳ mở cửa, các công ty nước ngoài lần lượt vào Việt Nam, tôi được làm việc cho văn phòng đại diện công ty Hoa Kỳ AMP tại Việt Nam. Mức lương 700 USD của một giám đốc kỹ thuật hồi đó là một con số rất lớn nếu so với đồng lương 50 USD của một kỹ sư mới ra trường.
Nhạc sĩ Cung Tiến