Hôm nay,  

Những Ngày Đầu Khó Quên

26/11/200200:00:00(Xem: 224478)
Người viết: Thomas Nguyễn

Bài tham dự số 73\VBST

Tác giả tên thật Nguyễn Quí Thảo sinh năm 1949. Cựu sĩ quan QLVNCH. Cựu tù cải tạo. Đến Mỹ năm 1992. Hiện định cư tại Los Angeles.
Công việc hiện tại: Làm công (Janitor).
Ảnh trên là thời chiến binh cũ của ông.


Gia đình tôi rời Việt Nam vào ngày 20 tháng 7. Tôi nhớ mãi vì đó là ngày chia đôi đất nước. Ngày Quốc Hận. Ngày này năm 1954 gần một triệu người dân miền Bắc phải lìa bỏ quê cha đất tổ, dắt dìu nhau vào Nam tìm tự do. Thêm một lần, 38 năm sau, 20 tháng 7 năm 1992, gia đình tôi lại phải lìa xa quê hương yêu dấu đến một đất nước hoàn toàn xa lạ cũng chỉ để tìm tự do.

Tôi sinh ra, lớn lên tại miền Trung, quê hương của những nhà cách mạng, đất ngũ phụng tề phi, nhưng sau bao thăng trầm nổi trôi của đất nước, xứ Quảng của tôi vẫn khô cằn sỏi đá, nhọc nhằn.

Gần 10 năm lê lết khắp các trại tù cải tạo, từ Trảng Lớn, Đồng Pau, Trảng Táo, Chí Hòa, Xuyên Mộc, tưởng chẳng có ngày về, nhưng cuối cùng, gia đình tôi tuy muộn màng cũng đã tới được xứ sở của Tự Do.

Ngay khi tới đất Mỹ, tôi hiểu rằng, muốn hội nhập và tồn tại, phải có hai điều cần thiết nhất là tiếng Mỹ và việc làm. Trong khi chờ tìm việc, tập nghe tập nói tiếng Mỹ phải là ưu tiên một.

Hằng ngày tôi la cà ở các chợ Mỹ để thực tập nghe và nói tiếng Anh. Có lần đạp xe đi mua một bịch muối, chợ thì rộng bịch muối thì nhỏ, tìm mãi chẳng biết chỗ nào. Nhẩm đi nhẩm lại có hơn chục lần câu hỏi bằng tiếng Anh, tôi tự tin bước đến hỏi bà đầm Mỹ đang xếp đồ gần đó. Nguyên văn câu tôi nói như sau:

"Excuse me, Mam. I want to buy some salt, but I don't know where it is. Can you help me, please""

Tự thấy là đủ lễ bộ rồi. Cũng excuse me, cũng please, cũng lịch sự có thừa chớ đâu đến nỗi tệ. Bà đầm Mỹ hiểu ngay, nhoẻn miệng cười, miệng nói, tay chỉ tôi đến quầy số 6.

Đến đó tìm loanh quanh chẳng thấy muối đâu cả, cho chắc ăn, đảo qua đảo lại cho mấy vòng, bịch muối vẫn biệt vô âm tín. Tôi bèn quay lại hỏi bà lần thứ hai. Lại một nụ cười nữa trên môi, lần này bà dẫn tôi đến tận quầy số 6 và chỉ cho tôi cái thứ tôi cần mua. Thỉ ra tôi muốn mua muối mà bà ta chỉ cho tôi một mớ xà bông cục.

Nói qua nói lại vài lần không được, tôi phải lấy giấy viết ra cho bà biết cái thứ tôi cần. Bà ta thốt lên:

"Oh, My God! that is salt, not ...soap!"

Cuối cùng rồi cũng cầm được bịch muối trên tay, bước ra cửa chợ, nhìn quanh, đèn đường bật sáng tự bao giờ. Tôi rẽ trái, quẹo phải đến lấy chiếc xe đạp. Trời nhá nhem tôi, chắc mình đi lộn chỗ nữa rồi. Tôi dụi mắt nhìn kỹ đôi ba lần nữa thì hỡi ôi, chiếc xe đạp yên quý của tôi đã không cánh mà bay.

Tôi nhìn kỹ tên chợ: không phải chợ Đồng Xuân. Để gọi phone về nhà nhờ người ra đón, tôi ghé vào tiệm Donnut gần đó để đổi vài đồng 25 xu. Lại phải lôi cái sổ học Anh văn của mình ra xài nữa, tôi cố moi óc, miệng lẩm bẩm: 1 xu là penny, 5 xu là nickle, 10 là dime, 25 xu là quarter...

Chắc ăn rồi, tôi hăng hái bước vào, thấy ông chủ là người Việt Nam tôi thở phào xổ tiếng mẹ đẻ: "Chào ông chủ, cho tôi đổi mấy đồng 25 xu để gọi điện thoại tí." Ông chủ trợn tròn mắt, lắc đầu nguây nguẩy, hỏi tôi bằng tiếng Anh là mày muốn cái gì" Tau không hiểu. Tôi chưng hửng, lắp bắp "sorry! sorry!". Rồi xổ nguyên văn như sau: "Excuse me, I need some quarters, please." Miệng nói, tay đưa cho ông ta một đồng bạc giấy. Ông ta OK, cầm tiền, bảo tôi chờ một chút, quay vào trong, ông mang ra cho tôi một ...ly nước lạnh!

Tiếng Anh ơi là tiếng Anh. Quarter với chăng water, muối thì tôi nói thành xà bông cục, đồng 25 xu thì nói ra thành ly nước lạnh. Tiếng Em nói nghe dễ dàng mà sao tiếng Anh ôi thôi khó quá. Tôi cũng chẳng buồn lấy giấy ra viết lần nữa. Tay cầm ly nước lạnh bước ra, tu một hơi dà. Nước mát trôi qua cổ họng làm tôi thấy yêu đời. Hít một hơi thật sâu, tay ôm bịch muối, chân trái sẵn sàng, đếm nhịp, đàng trước bước, một, hai... "Đường trường xa, ta quyết đi cho đến cùng. Thế một lòng, quyết chiến đấu đoàn quân ra đi."

Cuốc bộ khoảng đường khá xa, đã toát mồ hôi, nhìn qua bãi cỏ bên kia đường, một chiếc xe đạp của ai vất lăn lóc ở đó. Tôi định bụng: Được rồi, mày "mượn" xe của ông thì ông cũng "mượn" xe của mày cho bõ ghét. Tôi băng nhanh qua đường đến nơi, tôi không còn tin vào mắt mình. Con ngựa sắt của tôi sao lại nằm ở đây, đúng là nó rồi, bình nước buộc chặt vào xe vẫn còn đó...

Tôi xốc nó dậy, bỗng dưng một luồng khí lạnh chạy dài theo cột sống, sợ có người cho rằng mình ăn cắp xe, tôi đảo mắt nhìn quanh rồi phóng thẳng một mạch, thỉnh thoảng quay đầu về phía sau xem động tĩnh ra sao, chỉ thấy vài ánh đèn xe hờ hững lướt qua. Mọi việc diễn ra tốt đẹp. Về đến nhà mới hay bịch muối tôi đã quýnh quáng bỏ lại hiện trường. Sáng hôm sau quay lại, bịch muối vẫn còn nằm đó ,ướt đẫm sương đêm.

Và cũng một lần, tôi đạp xe ra phố Bolsa để tham dự cuộc biểu tình, tuyệt thực đòi tự do nhân quyền cho Việt Nam. Trước khi đi cũng lấy bản đồ ra, xác định điểm đúng, chỗ nào quẹo phải, nơi nào quẹo trái, ước tính thời gian từ nhà đến mục tiêu, tốc độ của xe đạp v.v...

Đạp mãi cả tiếng đồng hồ, chẳng thấy Bolsa đâu cả, có lúc tôi đạp lên cả đường vào freeway, cuối cùng đành phải nhờ người chỉ đường mới biết rằng muốn đi ngược về Bolsa phải mất ít nhất 2 tiếng đồng hồ đạp xe nữa. Thôi thì đành hẹn Bolsa lần khác vậy.

Cha tôi lúc còn sống, mỗi lần rượu ngà ngà say, ông thường ngâm nga mấy câu chữ Hán Việt giao duyên, đại để như: "Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân trị diện bất tri tâm. Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người. Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy v.v..." Diễn ngâm rồi, ông giảng giải cho các anh chị em tôi làm bài học ở đời. Trong các bài học cha tôi dạy, tôi đắc ý nhất câu "Nhơn vô viễn lự, tất hữu cận ưu." Vì vậy sau này lớn lên làm việc gì tôi cũng chuẩn bị rất kỹ.

Chuyện đii Bolsa cũng vậy. Có lần tôi thủ sẵn 10 đô trong túi nhét thêm mấy đồng food Stamp phòng khi hữu sự. Lạc đường, bụng đói, túi có sẵn tiền, tôi ung dung bước vào một tiệm ăn Mỹ (lại Mỹ) định ăn một tô cháo lấy sức đạp xe về.

Vào tiệm, để chắc ăn, tôi xem menu thật kỹ. Cháo tiếng Mỹ gọi là soup, mà soup và soap na ná giống nhau nên tôi không dám gọi thẳng mà chỉ dám lấy ngón tay chỉ vào thực đơn cho chắc. Cô bồi bàn lườm tôi với ánh mắt vô cùng khó chịu, tôi chẳng hiểu tại sao, hay là họ kỳ thị người da màu như tôi vẫn thường nghe nói. Nhưng rồi cô cũng OK và hỏi tôi có muốn gì thêm nữa không, tôi lắc đầu, cám ơn và thư thái ngồi chờ.

Lát sau cô bưng ra cho tôi một cái khay trong đó có một tô to như là cái máng heo, toàn là nước, lợn cợn vài sớ thịt lí tí...và mấy cái bánh mặn con con bên cạnh. Tôi ngồi chờ thêm 5 phút nữa xem còn có món gì nữa không nhưng chẳng thấy gì cả. Cuối cùng tôi chẳng biết ăn cái nào với cái nào nên vội vàng nhét mấy cái bánh mặn vào túi, húp thử vài muỗng nước nhạt thếch trong tô, rồi tính tiền dông thẳng. Quí vị biết không, lần đó phải trả gần 8 đôla cho một tô nước lạnh!

Về đến nhà, vợ con hỏi đi Bolsa có vui không, tôi nói: "Vui, vui lắm." Mãi gần cả năm sau tôi mới hiểu được tại sao cô bồi bàn lại nhìn tôi với ánh mắt vô cùng khó chịu khi tôi chỉ vào thực đơn để gọi món soup. Chẳng dấu gì quí vị, tôi có thói quen chỉ bất cứ cái gì cũng bằng ngón tay giữa, đôi khi muốn nhấn mạnh lại nhịp nhịp thêm đôi ba lần nữa. Bây giờ mỗi lần nghĩ lại thấy rợn cả người...

Tôi cũng đã gởi đơn xin việc đến các hãng Mỹ, thư đi thì có, tin lại thì không. Trong lúc chờ đợi, tôi cũng đã tận dụng thì giờ để xin việc ở các shop may Việt Nam. Tôi nào có biết may áo quần gì đâu, máy may công nghiệp lại càng mù tịt nhưng lại nghĩ đến câu cha tôi thường nói: "Sĩ khả bách vi, sĩ kiêm bách nghệ" nên tôi cứ liều mạng đến shop may để xin việc.

Mới vào, bà chủ shop đưa cho tôi một cái áo chằng chịt đủ màu: xanh, đỏ, tím, vàng, và hỏi: "Chú có may được không"" Tôi thú thực: "Nếu có ai hướng dẫn ráp cái nào vào với cái nào thì chắc tôi làm được." Lúc đó chắc là shop may đang thiếu thợ nên bà chủ nhận tôi liền. Đưa cho tôi hai chồng vải, bà ráp trước một cái làm mẫu, bảo tôi cứ thế làm theo, khi nào xong thì báo cho bà biết.

Ngồi vào ghế may, giống như đang ngồi vào ghế điện tử hình, tôi liếc mắt nhìn quanh xem các cô thợ điều khiển máy may như thế nào, thấy cũng đơn giản. Tôi cầm hai mảnh vải lên, miệng lẩm bẩm lời Cha dạy "Sĩ khả bách vi, sĩ kiêm bách nghệ" rồi lên gân chân phải đạp mạnh. Máy may rít lên một tiếng rợn người nghe như ai đang xé lụa. Hai tay tôi cố kéo miếng vải lại nhưng không kịp, đường chỉ chạy băng từ đầu này sang đầu kia như rồng bay phượng múa. Còn may, bàn tay tôi không hề hấn gì. Các cô chung quanh trố mắt nhìn, có cô tốt bụng chạy lại hỏi tôi: "Chú có làm sao không"" Tôi ngượng quá, đỏ cả mặt, miệng nói không nên lời.

Bước đầu khủng khiếp vậy nhưng nhớ đến lời cha tôi dạy nên càng về sau với sự cố gắng học hỏi. Với sự giúp đỡ của các đồng hương tốt bụng cùng làm trong shop, tôi cũng đã tự mình làm được mọi công việc, sau đó còn lãnh hàng về nhà may, từ đó gia đình có thêm chút tiền sinh sống.

Giờ đây, khi ngồi viết những giòng này, gia đình tôi tuy không còn tiếp tục nghề may và nữa, nhưng những chiếc máy may, máy clock, tôi vẫn còn giữ lại như những kỷ vật thời mới có việc làm. Ba đứa con lớn cũng đã tốt nghiệp Đại học với các ngành nghề khác nhau. Hai đứa nhỏ vẫn ngoan, biết phụ giúp mẹ, học hành chăm chỉ và đặc biệt, tiếng Việt rất là lưu loát.

Còn ước mơ gì hơn thế nữa, nhưng sao tôi vẫn thầm mong được một ngày trở lại quê xưa, thăm hai giòng sông Thu Bồn thuở ấu thơ một thời ngụp lặn, thăm lại con đường quê ngập đầy dấu chân trâu mỗi buổi chiều về, thăm lại ngôi trường tiểu học nghèo nàn thời tuổi nhỏ. Và mong được một lần về thăm lại ngôi mộ của cha mẹ tôi. Cho đến lúc cha mẹ tôi nhắm mắt lìa đời, đứa con trai út của ông bà vẫn còn nằm trong vòng rào trại tập trung cải tạo. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy dường như lúc nào vong linh của Ông, Bà vẫn theo mãi bên gia đình tôi, luôn phù trợ cho cháu con vượt qua bao nhiêu phong ba, bão tố.

Đoạn đời thanh xuân của tôi đã phải chôn đứng chôn ngồi trong những trại tù cải tạo, nghĩ lại, mình chẳng làm được gì cho quê hương, đất nước. Đưa được gia đình sang Mỹ, tôi tin tưởng, hy vọng vào các con của tôi, con của các anh chị. Chính các bạn trẻ sau này, những viên ngọc quý đã được trui rèn nơi lò luyện của tự do dân chủ, sẽ thay các bậc cha ông tiếp tục làm tròn trách nhiệm đối với đồng bào, đất nước. Ước mong trong một tương lai thật gần, nhưng viên ngọc quí đó sẽ lấp lánh ở trời Nam, làm rạng ngời dân tộc Việt.

Qua bài viết này gia đình tôi xin được nói lên lời cám ơn nước Mỹ đã cưu mang hàng triệu đồng bào Việt Nam tị nạn. Và cũng nhân đây, xin được cám ơn gia đình anh chị Trần Thế Ngữ, cô chú Đô Đức Kỳ, cô cậu Đặng Văn Cận, gia đình Đỗ Khái Hưng và những người quen biết đã hết lòng giúp đỡ gia đình tôi trong những tháng ngày đầu tiên nơi xứ lạ.

Tháng 7 năm 2000
Nguyễn Quí Thảo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 865,175,177
Buổi chiều, sau khi tôi đã hoàn tất việc cơm nước và dọn dẹp, các con tôi xem Tivi, tôi có được những phút yên tĩnh một mình trên căn gác nhỏ nầy để tập dợt nhạc Pháp xưa: "Maman oh Maman, Tout les garcons et les filles. Adieu jolie candy ..." rồi trở về nhạc Việt với Phạm Duy, Từ Công Phụng, Trịnh Công Sơn…. Bây giờ đã vào Hè, tôi mở cửa sổ
Phi trường quốc tế Los Angeles mà người ta vẫn gọi tắt là LAX vào một buổi sáng thứ bảy có đông hành khách ngồi chờ ở những hàng ghế trước các cổng lên máy bay được đánh số theo thứ tự. Mặc dù California là thành phố đa số người Mỹ gốc châu Á chọn định cư vì có khí hậu ấm áp tương tự khí hậu Dalat của Việt Nam, nhưng tại
Chuyến bay từ Paris tới Houston mất 9.25 phút. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên hàng không báo hiệu phi cơ hạ cánh vào lúc 4 g ngày thứ bảy 20/5/2006. Thọ chận một nam tiếp viên, giọng cố ý nhỏ nhẹ: - Ông làm ơn lấy dùm tôi những bức tranh tôi đã gởi vào cabine đặc biệt. - Rất tiếc tôi không giúp bà được. Trước khi xuống bà hỏi những
Tác giả Ai Cơ Hoàng Thịnh là một nhà giáo tại tiểu bang Victoria, Úc. Bà là người đã vận động đưa được tiếng Việt vào chính khoá và chương trình thi Tú Tài Úc, từ 1983 tới nay; Đã được Úc vinh danh Citizen of the Year 1994 tại Thành phố Footscray Teacher of the Year 1997 tại tiểu bang Victoria.
Vài năm nữa tôi sắp bước vào thời kỳ thất thập cổ lai hi. Đời người đi qua mau như thế tưởng được yên, chẳng ngờ chuyện nhân tình thế thái cứ quanh quẩn và tôi lại tiếp tục bị quấy rầy. Năm 1975 người Việt miền Nam đã mất những kỷ niệm quá khứ để ra đi, chỉ đem theo với mình tinh thần văn hoá dân tộc, trong đó ngôn ngữ
Trước khi vào câu chuyện xin được nói sơ qua về Maya Lin, tác giả của Bức Tường đá đen ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ghi danh các chiến sĩ Hoa Kỳ chết trong chiến tranh Việt Nam. Sinh năm 1959 tại thành phố Athens, tiểu bang Ohio, Maya Lin gây được sự chú ý của công chúng khi cô còn là một sinh viên 23 tuổi ở năm cuối Đại Học Yale
Thứ Sáu trước, tôi đang đi làm thì bà xã tôi gọi điện thoại, dặn tôi trước khi về thì ghé chợ ABC trên Bolsa mua cho bà ít bánh tráng để làm chả giò. Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nên tôi vội vã chạy vào chợ mua cho lẹ, để tránh cảnh kẹt xe freeway trên đường về nhà. Đang lúc chờ tính tiền ở quầy, thì có một ông tóc bạc phơ
Gắn liền với hình ảnh của làng mạc êm đềm tại miền bắc Việt Nam xa xôi, nơi tôi chưa một lần đến thăm, là bóng dáng của những cây đa to lớn sừng sửng đứng hiên ngang ở đâu đó. Ngày xưa, hình như sau mỗi phiên chợ xa về, các bà các cô thường hay dừng chân nghỉ ngơi đôi chút ở dưới những gốc đa như thế này. Những người nông dân
Bữa nay nữa là đúng 54 ngày tôi theo chồng về Mỹ. Mặc dù nước Mỹ đối với người Việt Nam chúng tôi không còn lạ lẫm gì cho lắm so với thời cuộc bây giờ, vậy mà tôi vẫn cứ ngỡ ngàng theo từng ngày tháng với cuộc sống mới mẻ nơi này. Tôi đang sống cùng chồng ở Jefferson, Oregan. Jefferson gần giống như Đà Lạt nhưng
1. Hướng Về Tương Lai Ngày từ mẫu đã trôi qua. Không khí ngày từ mẫu "Mother's day" vẫn còn phảng phất đâu đây. Nhân ngày này tôi hồi tưởng lại ngày từ mẫu hơn nửa thế kỷ đã qua. Mẹ tôi nay đã ra người thiên cổ. Nhớ tới bà tôi cảm động bùi ngùi thương tiếc. Bà ra đi trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai bà với 7 cậu con
Nhạc sĩ Cung Tiến