Hôm nay,  

Cô Bé Bấm Mạc

30/07/200100:00:00(Xem: 167384)
Bài tham dự số: 02-308-vb0427

Tí Vui là bút hiệu của một chuyên viên. Cô tới Mỹ sống với cha mẹ nuôi người Mỹ, trong khu vực Mỹ, lớn lên không am hiểu chữ Việt. Tự cô tìm học và tập viết. Bài viết về nước Mỹ đầu tay của cô kể chuyện một đứa trẻ có cha mẹ ly dị. Bài thứ hai kể tâm sự “người con gái Việt Nam da vàng” viết khi biết tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ trần. Đây là bài viết thứ ba của Tí Vui, truyện trước ngày tới Mỹ.



Thế là con tàu đã thật sự đưa nó rơi xa quê hương Việt Nam. Nó đã thật sự xa Mẹ. Tất cả nước mắt của nó có lẽ đã tuôn rơi hết vào cái ngày chiếc tàu vượt biên đưa hai anh em nó vào hải phận Hong Kong. Đêm ấy trơi đen như mực, mưa rơi tầm tã nhưng ánh đèn hải đăng thì ngơi sáng. Nó gục khóc trên lưng anh nó. Khuôn mặt nó hoà lẫn nước mưa và nước mắt.
Thế là chấm dứt sáu tháng dai trên biển cả. Đòan ngươi vượt biên được đưa đến trại tù Chi Ma Wan. Hai anh em nó lặng lẽ bước bên nhau trong mưa. Sức đã kiệt nhưng hy vọng thì tràn dâng. Thế là bắt đầu những ngày tháng trong trại tù tỵ nạn. Anh em nó bị nhốt vào hai phòng giam khác nhau vàchỉ được gặp nhau vào những lúc đi lãnh cơm mà thôị Rồi hai tháng nặng nề trôi quạ Rồi anh em nó được rơi trại tù Chi Ma Wan đến trại Jubilee để đơị ngày đi Mỹ.
Thế là bắt đầu những ngày sống tại Hong Kong. Anh em nó được sắp xếp cho ở chung phòng với khoảng năm sáu ngươi độc thân từ những trại khác chuyển đến. Nó là đưá con gái nhỏ nhất trong nhóm. Mươi ba tuổi đầu. Nó đang ở cái tuổi mà nó nhớ đại khái là nhà thơ Nguyên Sa đã viết :

"...Tuổi mới lớn thèm đôi chân của biển,
thèm một sân cỏ rộng một dòng sông,
thèm la hét để bắt đầu cuộc sống,
được nâng niu từng chút giấc mơ hồng"

Thế mà nó chỉ thèm vòng tay Mẹ. Từng đêm, nó vẫn mơ về khung cảnh gia đình thân yêu bên kia bờ đại dương. Nó thường nằm co rút trên giường và ôm vào lòng cái túi vải mà Mẹ nó đã may cho. Nó không khóc mà chỉ lặng lẽ. Đã tám tháng trơi xa cách. Gia đình nó chắc hẳn mong tin anh em nó lắm. Nó lân la tìm hỏi cách gửi thư về nhà. Và lá thư đầu tiên từ ngày nó rơi xa gia đình đã được gửi đi. Bây giờ nó mới an tâm tiếp nhận cuộc sống mới.

Những ngày đầu thật đói khổ nhưng anh em nó rất vui vì đã thật sự tìm được chút tự do. Mới tới trại nên nó thiếu thốn đủ thứ. Mỗi sáng, nó ráng dậy thật sớm trước mọi ngươi rồi lén lấy cái lò nhỏ của ngươi đàn bà gốc Hoa kế bên phòng để nấu cơm mà lòng phập phòng lo sợ. Nó xấu hổ lắm nhưng không có cách nào hơn. Nó thường nhét vào nồi cơm một cái trứng vịt muối và một khoanh lạp xưởng. Khi cơm chín thì lại sớt ra hai phần, còn trứng và lạp xưởng thì cắt đôi cho nó và anh. Cuộc sống như thế kéo dai hai tuần cho đến khi anh nó kiếm được việc làm ngoai trại. Lúc ấy, chính phủ Hong Kong cho dân tỵ nạn được rơi trại kiếm việc làm. Anh nó cùng nhóm bạn mới ở trại cũng tìm được một việc làm mới tại hãng làm áo len. Nhiệm vụ của anh nó là kiểm soát xem áo len có bị hư hại gì không. Vai ngày sau, thì anh nó xin được cho nó vào làm cùng hãng.
Nó trở thành cô bé bấm mạc. Nó bấm nhãn hiệu của hãng và xếp áo vào trong túi rồi dán lại. Thế thôi. Cứ năm giờ sáng là nó thức dậy lén lấy cái lò nấu cơm rồi sửa soạn đi làm. Đường đến sở xa lắm nhưng cũng xinh lắm. Đường núi mà. Từng vách đá cao vút hai bên đường, từng đám cỏ, từng bụi dương, đã làm cho nó yêu. Vâng, nó yêu những con dốc dai trên đường đến bến đón xe bus, yêu từng hạt sỏi dưới chân đi. Nó yêu cả con thác bên cạnh những bậc tam cấp dai từ trên xuống thung lũng núi. Chỉ tiếc văn chương chữ nghĩa của nó không đủ để có thể diễn tả vẽ đẹp hùng vĩ đó.
Nó cứ lầm lũi sáng đi chiều về trong những bộ đồ từ Việt Nam đem sang, những bộ đồ mà nó đã ngâm nước biển nửa năm trời. Có vai ngươi bạn cùng lứa hỏi nó: “Sao cứ thấy Hà mặc hoai những bộ đồ cũ đi làm hoai vậy" Hà khác những ngươi con gái khác. Họ thích chưng diện.” Nó xót xa trong lòng nhưng chỉ nhẹ cươi rồi đáp: ”Tại Hà không tiền sắm.” Chưa bao giờ nó tủi thân đến như vậy. Nó muốn muốn kêu “Mẹ ơi! Mẹ có biết đưá con gái cưng của Mẹ bây giờ bơ vơ lắm không" “


Chiếc áo sờn rách với chiếc quần lãnh đen bạc màu đã làm nó đã nghèo lại còn nghèo hơn. Bạn bè nó ai cũng có cha có mẹ nên được mua sắm trưng diện như mấy cô gái Hong Kong. Còn nó, nó chỉ là một con bé tỵ nạn không cha không mẹ. Nó đã nghĩ và cho mình ở tận cùng con số không. Đi đường nó không dám nhìn ai và cũng chẳng dám mơ tưởng gì. Nó không dám làm quen với ai và cũng không dám nói chuyện với ai. Khi đi làm, đôi khi nó ăn vội một trái táo dưới chân cầu thang thay cho bữa ăn trưa rồi trở vào làm. Ông chủ hãng cũng thương anh em nó lắm nên ông hay mơi anh em nó ăn trưa nhưng nó đều từ chối. Nó không muốn ai thương hại nó ca.û Nó có đôi bàn tay và khối óc. Nó nghĩ rằng ngày mai sẽ sáng lạng hơn.
Chung quanh nó đa số là ngươi Việt gốc Hoa. Nó tập tành học nói tiếng Quảng Đông. Làn da trắng của nó làm cho những ngươi chung quanh cứ tưởng nó là ngươi Hoa. Gặp nó là họ cứ nói tiếng Hoa. Ban đầu thì nó cứ lắc đầu, sau này thì nó trọ trẹ: “Ngộ hùm séc thén hùm séc kỏn Thòn Quả “(tôi không biết nghe và nói tiếng Quảng Đông) và cươi trừ.
Ấy thế mà bạn bè của nó nhiều lắm và phần lớn là ngươi Hoa nên nó học tiếng Hoa cũng nhanh và cũng dần quen đi nếp sống trong trại tỵ nạn.
Mỗi ngày sau khi tan sở, nó hay ghé qua một cái chợ bên đường. Lúc đầu thì nó hơi sợ nhưng sau thì cũng quen đi cái không khí nhộn nhịp ồn ào của chợ. Nó hay mua một đồng chân gà và một đồng táo. Đây là những món rẻ nhất mà nó có thể mua được. Nó vẫn nhớ những câu mà nó hay dùng nhất là “Lý tí kỷ tố xĩn"“ (Món này bao nhiêu tiền"), “Bỉ ngộ lý tí“ (Cho tôi cái này), hay là “Ùm cối nị" (Cảm ơn). Bấy nhiêu đó cũng đủ cho nó sống qua những ngày tháng bơ vơ trên đất lạ quê người.
Hôm lãnh lương, nó cầm mấy chục đồng trong tay mà lòng vui khôn tả. Anh nó dúi vào tay nó hết cả phần lương của anh và dặn nó giữ mà chi dụng. Lần đầu tiên trong đơi nó cảm thấy nó trở thành ngươi lớn. Nó bỗng muốn được đảm đang như Mẹ nó. Nó quyết định đi chợ và làm một bữa cơm ngon cho hai anh em.
Chiều hôm ấy, sau khi tan sở, nó lại vào khu chợ quen thuộc. Lần này nó không mua chân gà mà mua cả một con gà. Cầm con gà lên xe bus mà lòng nó nôn naọ Chắc là anh nó ngạc nhiên lắm đâỵ Về đến trại là nó đem gà xuống khu bếp công cộng rồi hì hục rửa. Loay xoay mãi mà nó cũng không biết phải làm con gà ra sao. May quá lúc ấy có một anh tỵ nạn gốc Hải Phòng tiến tới giúp một tay. Anh ấy chỉ cho nó cách chặt gà. Nó mừng và cảm ơn anh ta rối rít. Sau hơn một tiếng thì con gà cũng được nằm yên trong nồi.
Chiều hôm ấy anh em nó đã được một bữa cơm thật ngon. Nó vui lắm khi thấy anh nó ăn thật ngon miệng nhưng nó không quên dặn anh là phải chừa lại cho ngày mai. Sáng hôm sau, nó đem gà ra hâm lại để đem cơm thì hỡi ôi, muì chua bốc ra từ cái nồi làm nó bật ngửa. Nồi thịt gà đã bị chua vì đ ể ở ngoai cả đêm. Nó đứng ngẩn ngơ rồi ân hận đã không để anh nó ăn thêm chiều qua. Từ đấy, nó cẩn thận hơn và không để gì bên ngoai qua đêm nữa.
Nghe tin bạn bè nói có thể gửi quà về Viet Nam là nó lại lặn lội đi khắp nẻo chợ. Nó mua vai xấp vải đen cho chị và Mẹ, đồ chơi cho đứa em trai, bút viết cho Ba và hai gói bột ngọt. Nó nhớ dạo ấy bột ngọt có giá lắm. Nó hứa với Mẹ nó là khi lên đến bờ nó sẽ gửi bột ngọt về nhà. Nó hí hửng lắm khi thùng quà đầu tiên được gửi về cho gia đình nó. Sau đó thì hai em lại ăn mì gói vì bao nhiêu tiền đã dùng để mua quà nhưng nó không buồn vì biết gia đình nó sẽ vui biết bao khi nhận được thùng quà từ nó và anh nó.

Trơi Hong Kong trở lạnh vào tháng mươi một. Gió lạnh buốt da. Nó co ro trong chiếc mỏng manh. Thấy nó bị lạnh, bạn nó dắt nó đến một tiệm bán đồ cũ và nó mua được một cái áo len dài. Nó cũng dần quen với cái lạnh xứ người. Rồi đâu cũng vào đó. Hằng ngày nó và anh đều đi coi danh sách được đi Mỹ để rồi ủ rũ đi về. Nhưng Trơi chẳng phụ lòng người. Việc đến phải đến.
Một hôm đang làm trong hãng thì có ch ị bạn chạy vào báo cho nó biết: “Hà ơi, có tên Hà được đi Mỹ rồi.” Nó tung cửa chạy như bay về trại quên cả chào ông chủ. Đường về hôm ấy sao đẹp lạ lùng, và gió không còn lạnh như mọi hôm.
Về đến trại, nó chen chân vào giữa nhóm ngươi đang cố tìm tên mình trên bảng. Nó đọc được tên nó và anh nó rồi. Nó hét lên: “Có rồi” và ba chân bốn cẳng chạy một mạch đi tìm anh cho hay tin. Anh em nó mừng vô kể nhưng không khỏi buồn cho số bạn bè còn ở lại.
Ngày đi đã là ngày mai. Những ngươi bạn độc thân đưa tiễn anh em nó ra phi trường. Chỉ có vai tháng quen nhau sao mà thân thương quá. Các bạn tặng cho nó một con búp bê biết khóc. Nó ôm chặt món quà vào lòng và cố ngăn dòng lệ. Tay vẫy tay. Biết bao giờ gặp lại.
Máy bay cất cánh rồi bay vút vào trời xanh. Nó không còn là cô bé bấm mạc nữa. Nó nhắm mắt mơ về một chân trời tươi sáng.

Tí Vui

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 861,226,152
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp một số bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả kỳ nầy nói về một đề tài khác là những niềm vui khi “chơi” facebook.
Đây là tự sự của một thành viên tham gia chương trình VVNM. Tác giả bắt đầu tập viết ở tuổi 70 (2015), trong thời gian hai năm đã vượt qua mọi khó khăn và đã đoạt được giải Danh Dự (2016) và giải Vinh Danh Tác Phẩm (2017). Tác Giả quê quán ở Bến tre, sang Mỹ năm 1973, môt chuyên viên kỹ thuật về hưu, đang định cư tại Orange County. Hiện ông vẫn tiếp tục viết với sức sáng tác mạnh mẽ.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà sinh năm 1951tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Joje từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Bài đầu tiên của bà, “Cả Đời Tôi Làm Thư Ký Sở Mỹ. Sau đây là bài viết thứ hai của bà.
Tác giả là trưởng ban Tuyển Chọn Chung Kết giải Việt Báo từ năm 2017. Tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, bà nhận giải chung kết VVNM 2001, với bài “32 Năm Người Mỹ Và Tôi” và vẫn tiếp tục viết. Bà hiện làm việc bán thời gian cho National-Interstate Council of State Board of Cosmetology (NIC) và là cư dân Westminster. Bài mới nhất là chuyện mấy bà mấy cô đi chụp quang tuyến để khám ung thư ngực.
Tác giả Hồ Nguyễn, cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Anthony Hưng Cao là một Bác sĩ nha khoa, hiện hành nghề tại Costa Mesa, Nam Cali, từng nhận giải Tác Giả Xuất Sắc 2010,với hồi ký "My Life" chia sẻ kinh nghiệm học tập của ông. Ngoài nghiệp y khoa, ông còn là người viết văn, soạn nhạc và luôn tận tụy với sinh hoạt nghệ thuật, văn hóa, giáo dục. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả cùng 2 con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ, hiện có tiệm Nails ở Texas và lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bài viết mới của bà kể về nghề lái taxi tại Huế và người khách đặc biệt là một nhạc sĩ gốc Việt danh tiếng ở Mỹ.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017 và đây là bài viết thứ ba của ông. Ông tên thật Trần Thanh Hiền, sinh năm 1955 tại Thạch Hãn, Quảng Trị, định cư tại Tulsa, Oklahoma từ 1977. Sau 35 năm làm Engineering Designer trong ngành Safety Technology – Fire Protection (Kỹ Thuật An Toàn – Phòng Chống Lửa), đã về hưu năm 2015, khi vừa tròn lục tuần, hiện là thông dịch viên hữu thệ tiếng Việt cho Tulsa County District Court và làm thiện nguyện tại Tulsa Catholic Charities.
Nhạc sĩ Cung Tiến