Hôm nay,  

16 Năm Tìm Con

10/03/200300:00:00(Xem: 207791)
Bà Bảy đến rước các con tôi vào trung tâm FCVN (Friend of Children of VN) vào chiều ngày 24/2/75.
Sau khi chúng đi rồi tôi bàng hoàng suốt đêm ấy, không tài nào nhắm mắt được. Ngay sáng hôm sau tôi định vào trung tâm để xin lại các con, nhất là cháu gái bé nhất của tôi. Tôi xao xuyến quá, tự coi mình là liều lĩnh và điên rồ.
Đến ngày 27/2/75, tình hình bên ngoài thật là xáo trộn, đã có những chuyến bay cất cánh để đưa các trẻ mồ côi rời khỏi VN. Không còn chịu đựng nổi sự lo lắng, tôi liền đến trung tâm FCVN họ không cho tôi vào, tôi trở về nhà lòng đầy trách giận và oán hờn những người Mỹ không giữ lời hứa.
Tinh thần tôi bấn loạn, muốn điên lên được, suốt ngày hôm đó tôi chỉ ngồi một chỗ, không thể làm gì nữa, chân tay không nhấc lên nổi, thật là một tình trạng khủng khiếp.
Chiến trường càng lúc càng về gần Saigon, chung quanh xóm tôi ở mọi người ai ai cũng bàn tán xôn xao, người thì tìm đường đi Mỹ, kẻ thì ở lại vì họ tin tưởng hiệp định Geneve, tin tưởng chính phủ ba thành phần.
Ngày 20/4/75 tôi và cháu lớn của tôi nhất định ra đi, không do dự và cũng không còn con đường nào khác để lựa chọn. Chúng tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất, đến nhà bà chị ở, đây là con đường ngắn và dễ dàng nhất.
Ngày 29/4/75 gia đình bà chị tôi nhất định không đi. Ngày 30/4/75 chúng tôi từ phi trường Tân Sơn Nhất trở ra và về nhà. Thế là hết, bao nhiêu quyết định đều tan tành. Nơi mà tôi thấy dễ dàng, tin tưởng nhất lại là nơi khó khăn và thất vọng, nước mắt tôi chan hòa.
Tôi trở về nhà thu xếp lại những thứ cần dùng, tôi và cháu lớn của tôi, chúng tôi lập tức ngay ngày hôm sau ra Vũng Tàu, vì ba tôi có một ngôi nhà tại Vũng Tàu gần biển. Hy vọng ra đây, chúng tôi có thể tìm được tầu ra đi. Tất cả mọi con đường đều bị chặn và tắc nghẽn, vì ai ai cũng túa ra đường như một biển người. Không biết trong thâm tâm của họ đã nghĩ gì, không biết họ có cùng ý định như tôi không" Tôi thấy một sự mất mát quá to lớn, mình không còn có thể giữ được những gì mình yêu quý nhất: "Sự tự do của con người".
Nhìn những đoàn xe thiết giáp và lớp lớp những người bộ đội từ miền Bắc vào, tôi thấy chua xót quá, đau đớn cho miền Nam đầy tự do này. Đến bây giờ tôi cũng không thể tả lại tâm trạng của tôi lúc đó như thế nào, một nổi chán chường, một sự thất vọng và viễn ảnh một tương lai đen tối, không phải cho tôi mà cho thế hệ trẻ sau này, trong đó có đứa con trai lớn của tôi.
Những ngày lui tới trung tâm FCVN tôi quen hai người, cô Thủy và bà Bảy Lan (bà này là bạn đạo của ba tôi).
Những ngày cuối tháng 4/75 cô Thủy đã theo các trẻ mồ côi rời VN đến Mỹ. Rất là may mắn, bà Bảy tình nguyện ở lại không đi. Tôi đến nhà tìm bà thì gặp bà ấy và thăm hỏi, bà cho tôi địa chỉ của trung tâm FCVN tại Colorado và may mắn hơn nữa là bà đã chú ý đến các con của tôi. Trước khi ra đi họ đã đổi tên của chúng thành một tên Việt Nam khác để sau này không còn một manh mối nào mà khiếu nại.
Sau này tôi nghe nói có một ông sĩ quan QLVNCH cũng gởi con đi theo đường trẻ mồ côi, khi ông đến được Mỹ, ông tìm lại con và đòi bắt lại nhưng những người nhận nuôi trẻ không cho, hai bên phải kiện ra tòa, sự việc xảy ra rắc rối.

Mọi cố gắng để ra đi đều không thành. Những tháng cuối của năm 75, kế đến năm 1976, 1977 và những tháng đầu của 1978, thư từ cũng như những thông tin trong miền Nam VN không được chuyển ra nước ngoài, trừ miền Bắc VN thư có thể gởi sang Pháp được.
Tôi có người quen ra tập kết miền Bắc từ năm 1954, nay ông này về Saigon gặp lại tôi vào đầu năm 1976, ông cho tôi biết thư từ Hà Nội có thể gởi sang Pháp được. Không để lỡ cơ hội, tôi nhờ ông ấy khi nào về Hà Nội cho tôi gởi một bức thư sang Pháp cho một người bác bà con của tôi, để hỏi thăm sức khỏe của ông ấy. Thật ra trong thư tôi đã nhờ bác tôi chuyển thư qua Mỹ đến trung tâm FCVN tại Colorado.
Thư từ Saigon gởi ra Hà Nội, rồi qua Pháp, từ Pháp chuyển qua Mỹ, rồi được từ Mỹ đến Pháp qua Hà Nội vào Saigon, thời gian phải mất một năm.
Một sự may mắn hơn nữa là thư tôi đến tận tay cô Thủy. Khi cô này còn ở Việt Nam, cô ta rất có cảm tình với tôi, cô thấy thương cho hoàn cảnh của tôi, dám hy sinh, đặt nặng tương lai các con trên tình cảm riêng tư của mình. Và cô này đã trả lời thư cho tôi, cô cho tôi biết hiện giờ các con tôi đang ở đâu.
Thư đến tay tôi lòng tôi hân hoan vô cùng, mừng khấp khởi không tài nào tả được tâm trạng của tôi lúc bấy giờ.
Đầu năm 1977 tôi liền viết thư đến các gia đình nhận nuôi các con tôi cũng gửi theo đường từ Hà Nội.
Gia đình nhận nuôi cháu gái lúc đi cháu được 9 tuổi và cháu trai 7 tuổi họ ở Oregon, bà này dạy học và chồng bà ta là một phi công. Ngoài 2 đứa con của tôi, ông bà này còn nuôi thêm 4 đứa con da màu và một bé gái con của ông bà, tổng cộng gia đình có 7 trẻ con (sau này ông bà còn nhận nuôi thêm một đứa bé gái Đại Hàn lai Mỹ).
Bà này nhận thấy nghề dạy học không hấp dẫn bao nhiêu, nên bà dời về Austin Texas học về Luật (ở đây trường luật khá nổi tiếng).
Thế là đầu năm 1978 họ dời về Austin Texas. Nếu tôi không kịp thời viết thư cho họ đầu năm 1977 thì tôi đã mất liên lạc với gia đình này, ngay cả trung tâm họ cũng không biết gia đình này rời đi đâu.
Còn gia đình nuôi hai cháu gái nhỏ nhất của tôi họ ở tại Corolado, 2 ông bà này dạy học, có 2 thằng con trai. Cũng đầu năm 1978 họ được gia sản của cha mẹ để lại tại Penn Sylvania khi cha mẹ họ qua đời, họ dời về đây sau khi nhận được thư của tôi.
Còn một việc may mắn khác nữa là các gia đình nhận nuôi các con tôi họ bằng lòng cho các cháu liên lạc với tôi, thường thường họ cắt đứt liên lạc giữa cha mẹ và con cái vì họ không muốn những trẻ nhỏ họ nhận nuôi san sẻ tình cảm nhất là với mẹ ruột của chúng.
Mãi đến năm 1979 tôi mới thường xuyên liên lạc với chúng nó. Các trẻ này sống trong gia đình Mỹ, nên càng ngày chúng quên lần tiếng Việt.
Qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, tôi thấy thượng đế đã an bài cho mỗi người trong chúng ta một số phận. Nếu năm ấy, tôi không gặp được những sự may mắn trùng hợp một cách kỳ lạ, cộng thêm sự nhiệt tâm của tôi, thì bây giờ tôi đã thất lạc tất cả các con tôi.
Bài này được viết nhân dịp tôi đến thăm clinic của cháu Huy Bác sĩ tại San Francisco. Bây giờ thì tôi đã mãn nguyện lắm rồi, chúng nó đến một xứ sở văn minh nhất thế giới, tất cả chúng đều thành công, không đứa nào bị hư hỏng.
Tôi hy vọng ba các cháu nơi suối vàng cũng ngậm cười cho sự thành công của các con mình.

San Francisco May 29,2002.
TRƯƠNG LỆ CHI

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,670,263
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2006. Cô là cư dân San Jose và luôn gắn bó với sinh hoạt giải thưởng Việt Báo. Bài mới sau đây kể chuyện từ Bắc xuôi Nam dự họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12.
Một năm sau, ông từ trần tại San Jose vào lúc 8:15AM, sáng Chủ Nhật 12 tháng Tám, 2012, đúng vào ngày họp mặt kỷ niệm 20 năm Việt Báo và 12 năm Viết Về Nước Mỹ được tổ chức tại Little Saigon
Trước 1975, tác giả là một nhà thơ quân đội, một sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông cũng tham dự nhiều sinh hoạt cộng đồng tại San Diego và đã có nhiều bài tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên và đã hai lần nhân giải, 2001 và 2012. Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả chỉ mới đến Mỹ từ 2008, hiện là cư dân vùng Little Saigon, đã liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo và đã hai lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2009 và 2011. Bài mới nhất của tác giả kể về buổi họp mặt phát giải thưởng và ra mắt sách Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12.
Đây là bài về buổi họp mặt năm ra mắt sách VVNM 2012, viết bởi một tác giả ở San Jose không kịp “đu xe đò Hoàng” để xuôi nam phó hội. Donna Nguyễn đã có nhiều bài viết về nước Mỹ được phổ biến, như "Chồng Tếch Vợ Ly"; "Cái Bát Mạ Vàng", “Kết Hôn Để Qua Mỹ”...
Quán bên đường có thể chỉ là mái lá đơn sơ nghiêng theo bờ đường, hay một mái tranh ẩn mình dưới tàng cây cổ thụ đầu làng
Tác giả sinh năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang.Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989.
Nguyễn Duy An là tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước My 2006. Ông cũng là người Á châu đầu tiên đảm nhiệm chức vụ Senior Vice President National Geographic, tổ chức văn hoá khoa học lớn nhất thế giới. Năm nay, từ Washington D.C. tác giả bay về Cali tham dự họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12. Bài mới nhất của tác giả đề cập tới tình hình tài chính quá khó khăn của National Geographic và báo tin chàng chính thức về hưu non.
Chủ Nhật 12-8-2012 là họp mặt phát giải thưởng và ra mắt sách Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12. Giải thưởng Việt Báo hiện đã sang năm thứ 13 và liên tục từ năm 2000 tới nay, mỗi ngày đều có phổ biến bài viết mới. Sau đây, là bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả Hoà Đa.
Họp mặt phát giải thưởng và ra mắt sách Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 sẽ khai diễn chiều Chủ Nhật 12 tháng Tám sắp tới tại Little Saigon. Từ hôm nay tới cuối tuần, nhiều tác giả từ khắp nơi sẽ bay về họp mặt. Nhân dịp này, mời đọc lại ký sự họp mặt Viết Về Nước Mỹ lần đầu tiên,
Nhạc sĩ Cung Tiến