Hôm nay,  

Bụi Phấn Bụi Đời

7/3/200700:00:00(View: 283466)

Người viết:

Nguyễn Trần Diệu Hương

Bài số 2033-1896-600vb3030707

*

Diệu Hương là tác giả đã hai lần được tặng giải thưởng viết về nước Mỹ. Ngay từ năm đầu tiên, với bài "Chương Kết Của Cuộc Đời", cô được trao giải danh dự 2001. Sau 4 năm liên tục góp thêm bài viết mới, cô nhận giải vinh danh tác phẩm Viết Về Nước My 2005, với bài viết về một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà trong dịp 30 lần tháng Tư tại Mỹ, và bài "Cầu Vồng Giữa Mùa Hè", về một quả phụ Mỹ thời chiến tranh Việt Nam. Tác giả hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.

*

Ngôi trường đã có nhiều thay đổi khi tôi trở lại sau mười một năm. Cùng với tốc độ tăng trưởng của khoa học kỹ thuật, trường cũng trở nên hiện đại, mới mẻ hơn, nhưng những phòng học trong Business School, từ phòng học nhỏ cho những sinh viên năm cuối chỉ có hai mươi chỗ ngồi đến những giảng đường lớn cho những lớp học với trên một trăm sinh viên, thì vẫn vậy. Hành lang vẫn như xưa với những khuôn mặt thiếu ngủ  của sinh viên, luôn luôn phải dùng cà phê để giữ mắt mở to, giữ đầu óc tỉnh táo. Đó là điều đáng mừng vì ngày nào trường học còn đông người lui tới, ngày đó chúng ta còn lạc quan nhìn về tương lai.

Nhưng có một điều vẫn như xưa không vui chút nào, đâu đó lạc lõng trong những khuôn mặt sinh viên đa số còn trẻ, là một vài người già đầy vẻ nhẫn nhục, cam chịu, với một cái bao nylon đen to khoác vai và tay cầm dụng cụ dùng để nhặt lượm những vật nhỏ mà không cần phải khom lưng xuống. Điều buồn hơn, một vài người trong số họ lại là những ông bà cụ Việt Nam đã ngoài sáu mươi. Họ đến những phòng học trống, nhặt nhạnh trong giỏ rác những lon soda để mang bán cho những chỗ chuyên recycle lon nhôm.

Từ ngày chân ướt chân ráo vào trường, tôi đã đau lòng nhận ra có những ông bà cụ Việt Nam trạc tuổi Ba Mẹ mình kiên nhẫn đi từ phòng học này đến phòng học khác, và đôi khi vào cả giỏ rác trong phòng vệ sinh để thu nhặt từng chiếc lon nhôm. Có lần, nán lại sau giờ học hỏi chuyện một bà cụ Việt Nam, tôi được bà cụ kể lại tận tình nguồn cơn tại sao mình phải đi nhặt nhanh từng chiếc lon nhôm.

Ít ai ngờ được ngày xưa ở Việt Nam, thời trước năm 1975, bà cụ là một cô giáo dạy Trung học ở một tỉnh miền Tây. Sau một ngày cuối tháng 4 rất buồn của miền Nam, bà cụ lúc đó hãy còn trẻ, không còn được đi dạy vì có chồng là một sĩ quan đã được "tổ quốc ghi ơn" sau một trận chiến khốc liệt vào mùa hè đỏ lửa 1972. Cô giáo mất nghề dạy học lăn lộn ra xã hội làm đủ mọi nghề để nuôi hai con dại và nuôi thân vì cùng một lúc gia đình cô mất đi cả tiền tử tuất và tiền lương dù ít, nhưng rất ổn định của một cô giáo trung học.

Như đa số những người phụ nữ khác của miền Nam lúc đó, dù vất vả trăm chiều, bà cụ vẫn nuôi dạy hai người con trai nên người. Rồi định mệnh đẩy đưa, bà cụ đến được Mỹ nhờ một người em bảo lãnh, hai anh con trai đã lập gia đình vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.

Lúc đầu, bà cụ không chịu đi, với ý nghĩ bao nhiêu năm cơ cực, mẹ con có nhau, bây giờ bà không nở sống ở một đất nước giàu có, bỏ hai người con ở lại. Nhưng rồi người em ra sức thuyết phục, qua được Mỹ một thời gian may ra bà cụ còn có dư tiền gởi về giúp con.

Thế là bà cụ ra đi, hành trang chỉ vỏn vẹn tấm ảnh bán thân của người chồng quá cố, hình ảnh ba mẹ con chụp cùng nhau trước ngày bà qua định cư ở Mỹ, và một tấm hình từ thuở xa xưa đã ngã màu vàng ố thời bà cụ còn là một cô giáo trung niên ở một trường Trung Học ở miền Tây. Vậy mà bà cụ quý lắm, xem chừng những tấm hình đó với bà cụ còn quý hơn cả cái máy nghe nhạc Ipod mỏnh dính của mấy cô mấy cậu teenager mới lớn, hay cái nhẩn kim cương sáng loáng của những cô gái mới đính hôn.

Những năm đầu ở Mỹ, chưa có quốc tịch Mỹ, không xin được trợ cấp từ quỹ an sinh xã hội để nuôi dưỡng những người già không có thu nhập, (đa số là những người già nhập cư từ những nước khác vì những người già đã đi làm đủ mười năm ở Mỹ thì đã có lương hưu trí hàng tháng), thu nhập là số không như những ngày cuối năm 1975, bà cụ tìm mọi cách để kiếm tiền gởi về giúp hai con trai. Một lần đi chợ, thấy những người Mễ, người Phi, và cả người Việt Nam đến trung tâm recycle bán lon nhôm, bà cụ nghĩ được cách kiếm tiền lương thiện, nhưng đầy vất vả. Thế là mỗi buổi trưa, dù vào giữa mùa Đông băng giá, hay đầu mùa hè nóng bức, cứ khoảng hai giờ chiều, bà cụ đón xe bus xuống down town, đến ngôi trường Đại Học lâu đời nhất ở California, đi nhặt lon ở khắp campus. Hôm nào hên, được đến ba bốn bao lon, loại bao rác màu đen, bà cụ bối rối không biết làm thế nào để mang về nhà vì xe bus đâu có chờ lâu ở mỗi trạm mà bà cụ thì đã gần bảy mươi, đâu còn nhanh nhẹn như thời còn trẻ, không thể mang lên và đặt xuống các bao nylon đen trong vòng một phút.

Lần đầu tiên nhận ra bà cụ là người Việt Nam, lại trạc tuổi Ba Mẹ mình, tôi lân la hỏi chuyện, và được nghe bà cụ kể lễ sự tình, tôi tình nguyện dùng trunk xe của mình làm chỗ cho bà cụ gởi tạm những bao nylon đựng lon nhôm những hôm bà cụ may mắn nhặt nhanh được từ hai bao trở lên. Dạo đó, nhiều khi bà cụ cột bao không kỹ, mỗi lần lái xe qua một khúc quanh có góc nhọn, những cái lon nhôm rỗng lăn tung tóe trong thùng xe tạo nên tiếng động nghe cũng khá vui tai. Một người bạn Việt Nam khi thấy xe tôi đầy hộp lon, hỏi chuyện, khi đã rõ nguồn cơn, anh nhờ tôi đem vào trường biếu bà cụ năm mươi đồng, gọi là quà gởi cho hai người con trai của cụ còn ở quê nhà. Thật bất ngờ, bà cụ một mực từ chối, viện cớ cụ còn khỏe, còn có thể "làm ra tiền" nuôi con như từ thuở nào. Bà cụ cười rất đôn hậu, nhờ tôi chuyển lại lời cám ơn đến người bạn:

- Bác cám ơn cháu và bạn cháu. Thỉnh thoảng cháu cho bác gởi nhờ những bao lon trên xe để bác mang đến trung tâm recycle từ từ đã là quý hóa lắm rồi. Khi nào, cùng quẫn lắm, Bác sẽ hỏi xin cháu và bạn cháu điều khác.

Ấy vậy nhưng tôi cũng có cách giúp bà cụ. Dạo đó, mỗi khi có giờ rảnh, tôi nhặt lon ở thư viện (là nơi chỉ dành riêng cho Giáo sư và sinh viên, người ngoài không đượcphép vào), đem ra để ở trunk xe. Tôi chỉ đậu xe ở một khu vực thuận tiện, gần trạm xe bus và cho bà cụ tạm giữ một chìa khóa trunk xe của mình, để bà cụ có "access" dễ dàng lấy lon.

Ngày tôi ra trường, tôi đã tìm được "successor", một người bạn Việt Nam học lớp dưới, thay tôi giúp bà cụ dễ dàng hơn trong việc "kiếm tiền". Như một loại "job training", tôi chỉ lại người bạn chổ đậu xe đã khá thân thuộc với bà cụ, chỗ nào thường có nhiều hộp lon ở thư viện... Người bạn cũng có tấm lòng, vui vẻ "tiếp thu" việc giúp bà cụ. Và tiếng leng keng do những hộp lon chạm nhau khi qua khúc quẹo hẹp, nhỏ hơn 45 độ lại vang lên, nghe vui tai như tiếng của "đại dương trong lòng con ốc nhỏ".

Lần tôi giới thiệu người bạn sẽ giúp bà cụ thay tôi, bà cụ chảy nước mắt. Cầm tay chúng tôi, giọng đầy xúc động:

  "Ngày xưa, thời còn đứng ở bục giảng, bác cũng có những người học trò hết lòng với thầy cô giáo cũ như hai cháu. Sau tháng 4/75, tưởng đã mất, mất tất cả mọi thứ liên quan đến trường học, vậy mà trong những ngày cơ cực ở quên nhà, bác cũng còn có được sự kính trọng và biết ơn từ những người học trò cũ, trên đường đầy bụi bặm. Nhưng ngay cả trong cơn mơ, bác cũng chưa bao giờ nghỉ là trên quê người, vẫn có những học sinh Trung Học ở Việt Nam ngày xưa, hết lòng với một cô giáo cũ như bác. Ngày xưa có nhiều khi bụi phấn làm bác cay mắt. Rồi những ngày lăn lốc ở lề đường, buôn bán nuôi con, bụi đời rất nhiều, nhưng không làm bác chảy được nước mắt vì cảm động như bây giờ.   Đâu có ngờ là ở trên đất Mỹ máy móc này, bác lại được sự giúp đỡ của các cháu. Các cháu biết không, bác chợt nhận ra bụi đời đôi khi cũng làm người ta nhỏ nước mắt."  

Dù chúng tôi không nói ra, nhưng bà cụ nhận ra chúng tôi đối đãi bà cụ như thầy cô giáo cũ của mình, với ý nghĩ ở đâu đó trên đất nước đầy cơ hội cho những người đến Mỹ dưới 30 tuổi, những "người lái đò già" ngày xưa, không còn cơ hội, phải kiếm sống bằng sức lực ở tuổi xế chiều, biết đâu có một vài thầy, cô giáo cũ đã dạy chúng tôi thời Trung Học đang mỏi mòn chạy theo guồng máy của một đất nước mới. Cũng có người giúp đỡ như chúng tôi đã giúp đỡ bà cụ trong suốt những năm còn ở Đại Học.

Về lại trường sau hơn mười năm, ngoài việc đi chào các thầy cô cũ người Mỹ, tôi cố ý tìm bà cụ, nhưng "cảnh cũ còn đó mà người xưa đã không còn". Ở hành lang của các lớp học, vẫn có những người già đi lượm lon nhôm, nhưng bà cũ ngày xưa của chúng tôi đã không còn. Tôi cố dò hỏi, nhưng không một ai biết tin tức gì về bà cụ đã chảy nước mắt vì cả "bụi phấn" lẫn "bụi đời".

Tôi cầu mong cho bà cụ có một đời sống khá hơn sau khi đã vào được quốc tịch Mỹ, và chợt nghe mắt mình cay cay không phải vì bụi phấn của ngày xưa mà là bụi đời của bây giờ...

Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 861,229,039
Phi trường quốc tế Los Angeles mà người ta vẫn gọi tắt là LAX vào một buổi sáng thứ bảy có đông hành khách ngồi chờ ở những hàng ghế trước các cổng lên máy bay được đánh số theo thứ tự. Mặc dù California là thành phố đa số người Mỹ gốc châu Á chọn định cư vì có khí hậu ấm áp tương tự khí hậu Dalat của Việt Nam, nhưng tại
Chuyến bay từ Paris tới Houston mất 9.25 phút. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên hàng không báo hiệu phi cơ hạ cánh vào lúc 4 g ngày thứ bảy 20/5/2006. Thọ chận một nam tiếp viên, giọng cố ý nhỏ nhẹ: - Ông làm ơn lấy dùm tôi những bức tranh tôi đã gởi vào cabine đặc biệt. - Rất tiếc tôi không giúp bà được. Trước khi xuống bà hỏi những
Tác giả Ai Cơ Hoàng Thịnh là một nhà giáo tại tiểu bang Victoria, Úc. Bà là người đã vận động đưa được tiếng Việt vào chính khoá và chương trình thi Tú Tài Úc, từ 1983 tới nay; Đã được Úc vinh danh Citizen of the Year 1994 tại Thành phố Footscray Teacher of the Year 1997 tại tiểu bang Victoria.
Vài năm nữa tôi sắp bước vào thời kỳ thất thập cổ lai hi. Đời người đi qua mau như thế tưởng được yên, chẳng ngờ chuyện nhân tình thế thái cứ quanh quẩn và tôi lại tiếp tục bị quấy rầy. Năm 1975 người Việt miền Nam đã mất những kỷ niệm quá khứ để ra đi, chỉ đem theo với mình tinh thần văn hoá dân tộc, trong đó ngôn ngữ
Trước khi vào câu chuyện xin được nói sơ qua về Maya Lin, tác giả của Bức Tường đá đen ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ghi danh các chiến sĩ Hoa Kỳ chết trong chiến tranh Việt Nam. Sinh năm 1959 tại thành phố Athens, tiểu bang Ohio, Maya Lin gây được sự chú ý của công chúng khi cô còn là một sinh viên 23 tuổi ở năm cuối Đại Học Yale
Thứ Sáu trước, tôi đang đi làm thì bà xã tôi gọi điện thoại, dặn tôi trước khi về thì ghé chợ ABC trên Bolsa mua cho bà ít bánh tráng để làm chả giò. Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nên tôi vội vã chạy vào chợ mua cho lẹ, để tránh cảnh kẹt xe freeway trên đường về nhà. Đang lúc chờ tính tiền ở quầy, thì có một ông tóc bạc phơ
Gắn liền với hình ảnh của làng mạc êm đềm tại miền bắc Việt Nam xa xôi, nơi tôi chưa một lần đến thăm, là bóng dáng của những cây đa to lớn sừng sửng đứng hiên ngang ở đâu đó. Ngày xưa, hình như sau mỗi phiên chợ xa về, các bà các cô thường hay dừng chân nghỉ ngơi đôi chút ở dưới những gốc đa như thế này. Những người nông dân
Bữa nay nữa là đúng 54 ngày tôi theo chồng về Mỹ. Mặc dù nước Mỹ đối với người Việt Nam chúng tôi không còn lạ lẫm gì cho lắm so với thời cuộc bây giờ, vậy mà tôi vẫn cứ ngỡ ngàng theo từng ngày tháng với cuộc sống mới mẻ nơi này. Tôi đang sống cùng chồng ở Jefferson, Oregan. Jefferson gần giống như Đà Lạt nhưng
1. Hướng Về Tương Lai Ngày từ mẫu đã trôi qua. Không khí ngày từ mẫu "Mother's day" vẫn còn phảng phất đâu đây. Nhân ngày này tôi hồi tưởng lại ngày từ mẫu hơn nửa thế kỷ đã qua. Mẹ tôi nay đã ra người thiên cổ. Nhớ tới bà tôi cảm động bùi ngùi thương tiếc. Bà ra đi trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai bà với 7 cậu con
Pharmacy ngày thứ Bảy khách không đông lắm, nhưng cứ đều đều, đều đều, 10, 15 phút lại có người đem toa đến hoặc đến để trả tiền, lấy thuốc. Hôm nay mấy người cashier của Pharmacy xin nghỉ hết, thành ra ông manager của tiệm đưa một cô bé cashier ở phía trên xuống để phụ với Kim. Bảng tên trên áo cô bé có chữ Lillian
Nhạc sĩ Cung Tiến