Hôm nay,  

Về Đâu?

10/04/200700:00:00(Xem: 140743)

Người viết: Trần Thiên Thịnh

Bài số 1237-1848-554vb2090407

*

Tác giả chuyển bài tới bằng e-mail, cho biết đang là nhân viên chính phủ, làm việc tại một tiểu bang xa California. Bài viết là một tự truyện nhẹ nhàng. Nhân vật xưng tôi trong bài là một thiếu nữ Việt...

*

Về đâu" Đó là một câu hỏi trong mỗi một con người chúng ta. Nhất là những khi chúng ta gặp điều không may trong cuộc sống.

Tôi gặp và quen biết anh rất tình cờ. Lúc đó tôi vừa mới từ Việt Nam qua du học. Nơi một thành phố có rất đông người Việt Nam cư ngụ. Trường của tôi học cũng vậy, học sinh Việt Nam cũng khá đông so với các sắc dân khác. Tôi thầm hy vọng mình sẽ không cô đơn lạc lõng nơi xứ người. Tuy vậy, nhưng tôi chưa một lần dám bắt chuyện làm quen với bất cứ một người nào. Vì mặc cảm bởi những người Việt tị nạn cũng như hầu hết sinh viên ở đây, đối với họ, tất cả du học sinh đều là con cháu, hoặc có liên hệ gần gũi với những người trong chính quyền cộng sản Việt Nam. Trường hợp của tôi hoàn toàn khác hẳn.

 Trời bên ngoài đang đổ mưa. Nỗi nhớ nhà của người con trẻ xa gia đình lần đầu tiên trong đời se sắt tim gan tôi. Cơm chiều xong, trời hãy còn sớm. Chưa biết làm gì cho qua buổi chiều hiu hắt cô đơn. Tôi thả bộ đến thư viện để tìm tài liệu cho đề tài tôi sắp sửa thuyết trình. Thư viện vắng tanh. Đang lay hoay với đống "Journal" ngổn ngang, tôi bổng nghe một giọng tiếng Anh rất Á Châu sau lưng.

"Cô đang cần tìm gì vậy""

"Vâng". Tôi trả lời, cũng bằng tiếng Anh. Dù rằng tiếng Anh của tôi lúc đó không khá gì mấy.

"Tôi có thể giúp cô tìm được không"" Anh nói.

Tôi đưa tên tập tài liệu cần tìm cho anh. Anh bỏ đi, không nói một điều gì. Lát sau, anh quay lại và đưa cho tôi tập tài liệu cần tìm. Tôi nói lời cám ơn anh và đi tìm một góc vắng để đọc. Anh cũng trở lại với công việc của mình.

Hết giờ, thư viện đóng cửa. Tôi ra quày để đăng kí mượn tài liệu để về nhà đọc tiếp. Anh đứng đó, và tôi biết được anh phu làm ở đây sau những giờ học.

Nhìn vào thẻ sinh viên của tôi. Anh ngước mắt nhìn, mỉm cười và hỏi.

Người Việt Nam hả" Đến đây học lâu chưa" Sao nãy không trả lời bằng tiếng Việt. Tôi nghĩ thầm. "Già này đúng là vô duyên. Ai biết ông người gì mà kêu người ta trả lời bằng Tiếng Việt". Nhưng tôi cũng cười trả lời anh. "Cứ tưởng anh không phải người Việt Nam nên không dám. Sợ bị lầm".

Việt Nam quá đi chứ! Anh vừa cười, vừa nói.

Từ dạo đó tôi quen anh. Lúc đầu tôi cũng chỉ nghĩ rằng anh cũng như bao người khác. Cuộc sống đua chen theo nhu cầu vật chất nơi một đất nước tự do, người ta chỉ biết chăm lo cho hiện tại, làm sao để học mau ra trường, kiếm được việc làm nhiều tiền, sắm nhà cao, xe đẹp. Hưởng phước an nhàn theo chủ nghĩa hiện tại trước đã. Làm gì có ai để tâm đến cuộc sống đời sau. Dẫu rằng trong lúc lâm nguy trên những chuyến hải hành vượt biển, hay trong những lúc khốn khó cuộc đời. Không ít người khấn vái, cầu xin cho qua được cơn bỉ cực, sẽ làm những điều thiện phước để đền ơn. Nhưng có một ai, khi đã qua khỏi đoạn trường, nhớ lại những lời khấn hưá ấy. Dù chỉ là một chút mảy may.

Càng tiếp xúc với anh, tôi thấy anh rất khác. Một con người bình lặng, có pha chút bất cần đời bên ngoài. Nhưng trong tâm hồn là cả một trời dậy sóng. Chúng tôi thường gặp nhau, ngồi với nhau những lúc rảnh rỗi sau mùa học hay cuối tuần, thường là nơi những quán cà phê Starbucks. Vì nơi đó, theo anh nó có một chút gì đó lãng mạn, một chút tĩnh lặng không gian để cho anh có thể hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua. Những lần như thế, qua làn khói hương cà phê, trong ánh mắt nhìn xa xăm, và trong những câu chuyện anh kể. Tôi đọc được nỗi băn khoăn đang cày xới trong tâm hồn anh. Có lẽ anh sẽ phải gậm nhấm câu hỏi Về Đâu" suốt đời mà vẫn không tìm được câu trả lời. Cuộc đời của anh là những chuổi ngày dài tìm kiếm câu trả lời của sự hiện hữu và thinh không. Những lúc đó, anh kể cho tôi nghe những năm tháng thăng trầm của anh và gia đình anh ở quê nhà. Những khi anh phải đối diện với tử thần trong những chuyến hải hành vượt biển. Những khốn khó anh đã phải chịu đựng suốt thời gian dài trong các trại tị nạn. Những ê chề anh đã gặp phải khi bị trả về nơi chính anh đã trốn chạy để ra đi. Những lúc đó, tôi thầm nghĩ rằng một con người bình thường, nếu không nói là có chút khắc khổ như anh làm sao có thể chịu đựng được những thăng trầm trong cuộc sống như thế"

Bản thân tôi, cũng là một con người như anh, chỉ có phần tuổi đời của tôi nhỏ hơn anh chút ít. Nhưng nào tôi được nếm một chút khổ đau như anh, như bao con người khác còn bị đọa đày trên thế gian này. Anh tâm sự. Cũng đã có đôi khi, tưởng như không còn chịu đựng nỗi. Anh đã muốn tìm đến cái chết để mong cầu giải thoát những khổ lụy trần gian. Nhưng bản thân anh, vốn là một tín đồ Công giáo thuần thành. Anh vẫn còn giữ vững được niềm tin, và chính niềm tin của anh không cho phép anh làm những việc điên dại như thế.

Những lần nghe anh nói chuyện như vậy. Tôi chỉ biết ngồi lặng im, lắng nghe những gì anh nói. Chỉ duy nhất một lần, tôi nói với anh như an ủi. Em nghĩ rằng đời anh đã qua hết cơn bĩ cực rồi đó, chắc là sắp đến hồi thái lai. Anh thở dài. Lúc trước anh cũng nghĩ như em vậy. Nhưng càng đi, càng sống anh càng cảm thấy thất vọng. Không biết nơi đâu là chốn cùng đích của đời sống này. Với anh bây giờ, sống với hiện tại là một niềm vui. Mỗi giây phút qua đi là mình còn biết được mình vẫn hiện hữu. Một ngày qua đi là mình biết mình vẫn còn được sống trong cõi trần gian này khi sớm mai thức dậy.

Cứ thế, tôi càng thân với anh hơn. Anh đến với tôi những lúc cần thiết, những lúc tôi cần có người nghe để chia sẻ những uẩn ức và u buồn trong cuộc sống. Và, bao nhiêu lần tôi gọi là bấy nhiêu lần anh đều có mặt để nghe tôi thở than. Không một lời  phàn nàn. Và, cũng bấy nhiêu lần tôi nhận được nhiều điều ủi an từ tấm lòng, từ trái tim lương thiện sẻ chia của anh. Có những lúc tâm hồn trống trải khi thiếu vắng anh, trong tôi dấy lên nỗi bâng khuâng đợi chờ. Tôi tự hỏi lòng mình. Phải chăng tôi đã yêu anh"

Anh ra trường, đi làm xa. Chúng tôi không còn được gặp nhau thường như trước. Tôi cảm thấy cô đơn lạ. Tôi không còn những lúc được ngồi nghe anh kể chuyện đời anh. Không còn nghe anh nói về những triết lý của thế thái nhân tình. Thỉnh thoảng, tôi và anh nói chuyện với nhau qua điện thọai. Qua những câu chuyện thường ngày, tôi vẫn thấy anh chưa tìm được câu trả lời cho chính bản thân anh trong cuộc sống hiện tại. Những lúc cảm thấy anh vui. Tôi đùa. Chắc bây giờ anh đã tìm được con đường về của anh" Anh trả lời tôi vẫn vậy. Anh không chắc bao giờ mới tìm cho mình được con đường về. Tôi nói. Sao anh lại bi quan như thế" Tôi vẫn tự hỏi rằng, một con người trông thật bình thường như thế sao lại có quá nhiều uẩn khúc.

Bẵng đi một thời gian khá lâu, phần vì bận bịu bài vở bảo vệ luận án ra trường. Phần phải bươn chải tìm kiếm công việc làm sau khi tốt nghiệp để khỏi phải về nước. Như anh thường căn dặn tôi lúc đang còn đi học. "Ra trường cố gắng tìm kiếm một việc làm để ở lại đây thì tốt hơn". Tôi không liên lạc thường với anh nữa. Tôi vẫn luôn hy vọng rằng anh sẽ tìm thấy niềm vui trong công việc, và sẽ quên đi những nhọc nhằn đã qua. Tôi vẫn thường cầu nguyện cho anh như thế.

Hôm nay, sau khi hoàn tất chương trình học. Tôi gọi để thông báo cho anh tin mừng ngày tôi ra trường và cũng đã kiếm được việc làm ngay tại nơi này. Nơi mà tôi đã được gặp anh mấy năm về trước. Tôi muốn mời anh về dự lễ ra trường của tôi hôm đó. Tôi muốn nói với anh lời cám ơn anh đã chia sẻ với tôi trong những năm tháng lưu học nơi này.

Điện thoại của anh không còn nối mạng nữa. Tôi đành lục tìm trong trí nhớ trong số những người quen biết anh để hỏi về anh. Câu trả lời bên kia đường dây làm tôi choáng váng, ngất xỉu. Người em cho biết rằng anh đã qua đời sau khi trải qua căn bệnh ngặt nghèo ung thư. Một căn bệnh đã lấy đi sinh mạng Ba của anh vừa cách đây mấy năm. Tôi ngậm ngùi xúc động nói lời chia buồn cùng với người em và gia đình. Không biết làm gì hơn trong lúc này.

Trong thâm tâm, tôi nghĩ rằng chắc bây giờ, ở đâu đó. Anh đã tìm được câu trả lời Về Đâu" Một câu hỏi mà anh tìm kiếm câu trả lời gần bốn mươi năm nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,888,229
Tác giả đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012. Nguyễn Văn cho biết ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Cho tới nay, ông đã góp 4 bài: “Chuyện Của Bill”; “Tôi Không Là Ai Cả”; “Ngày Tháng Buồn Hiu”; “Mùa Thu Nashville.” Cả ba bài đều cho thấy cách viết tinh tế và sống động. Sau đây là bài viết thứ năm.
Sinh năm 1983, Kim Trần là tác giả trẻ tuổi nhất trong 12 tác giả vào chung kết Viết Về Nước Mỹ 2005 với bài viết ngắn nhất, 727 chữ, "Những bài học đầu tiên về nước Mỹ". Năm 2008, cô nhận thêm giải vinh danh tác giả với bài viết về ma tuý,v "Người Yêu Tôi: Một Con Nghiện." Sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm tại đại học Cal State, Kim Trần đã tự sáng lập "School First Learning Center" và hiện có 2 trường dạy kèm rất thành công tại Garden Grove và Westminster. Sau đây là bài cô mới viết.
Đây là bài đầu tiên của một tác giả người Mỹ trực tiếp viết văn bằng Việt ngữ. Email kèm bài viết được ông xưng danh là “Steve Brown tức là Sáu.” Ông chính là “người Mỹ yêu tiếng Việt” mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài “Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu.” Mới đây, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông,
Tác giả là một nhà giáo hưu trí, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài viết mới của ông có tựa đề “Fasting: Vô Chiêu Thắng Hữu Chiêu” gồm nhiều chi tiết đặc biệt sống động về việc điều trị bệnh động kinh. Sau đây là phần đầu.
Tác giả, một kỹ sư điện tử tại công ty Intel, Bắc California, đã 2 lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2009, giải danh dự, với bài "Tình Nghĩa, Nghĩa Tình" và Giải Vinh Danh Tác Phẩm 2010 -thường được gọi đùa là giải á hậu- với bài “Việc Làm Ơi, Mi Đi Đâu? Bài viết sau đây đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Nhâm Thìn, 2012, nhưng chưa có trên online nên xin bổ túc.
Bài viết là chuyện về bé Ti, qua Mỹ 4 năm trước, khi mới 7 tuổi. Vì một tai nạn xe hơi, “Ti bây giờ không còn gì nữa, má đã chết, chân trái Ti bị cụt, tay trái bầm dập.” Có thể tác giả cũng chính là nhân vật trong truyện kể, một bé gái còn ở tuổi thiếu niên. Chúc bé an lành và mong Nhật Mai liên lạc lại với Việt Báo.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục naêm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Sau đây là bài mới nhất của ông.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006. Bài mới của cô là một truyện gia đình Việt Mỹ và tình yêu đồng tính.
Tác giả dự viết về nước Mỹ từ năm đầu, từng nhận giải tác phẩm xuất sắc 2002, giải Việt Bút 2010 và hiện là thành viên ban giám khảo chung kết. Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là hai bài viết mới của ông. Tuy tựa đề kêu buồn nhưng không buồn chút nào.
Trước 30/4/1975, Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa - hiện có trên trang mạng: http://tuoihoa.hatnang.com/ và http://www.camlinguyenthimythanh.com Sau ngày 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học.
Nhạc sĩ Cung Tiến