Hôm nay,  

Ông Xã Xệ Của Tôi

25/09/201200:00:00(Xem: 162127)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả là một bà vợ cựu tù cải tạo, đến Mỹ theo diện H.O. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên cho thấy cách nhìn đời tươi tắn, lạc quan. Mong tác giả sẽ tiếp tuịc viết thêm.

Khi cuộc chiến tàn khốc gần đến hồi kết thúc, tôi tình cờ gặp anh. Như bao chiến binh VNCH khác, anh cũng áo trận bạc màu và đen đủi, dạn dày sương gió. Lính trận í mà, làm sao còn giữ được nét thư sinh ngày xưa.

Cưới nhau xong thì cuộc chiến cũng vừa tàn. Niềm vui hết “Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” chưa dứt anh lại cùng các bạn xách gói đi tù cải tạo. Lũ con gái cùng trang lứa chúng tôi thật lắm long đong. Có điều chúng tôi không bao giờ hối tiếc là người vợ lính và chấp nhận mọi gian nan trong đời.

Cuộc đổi đời quá đột ngột và quá tàn nhẫn khiến nỗi bất hạnh nhân lên gấp bội. Người dân miền Nam ai cũng ngẩn ngơ bàng hoàng, sợ sệt với những đổi thay vừa do những kẻ thắng trận từ miền Bắc mang vào. Ai cũng lắng tai nghe xem điều gì nên làm, điều gì không được làm.

Thành phố thân quen mới hôm nào nay đầy những anh chị bộ đội với phong thái khác lạ từ trang phục đến giọng nói. Ôi thôi có hàng triệu điều lạ trong nỗi bất hạnh của con người. Làm sao tôi kể hết được những hoang mang của tôi sau giai đoạn ba mươi tháng tư.

Người xưa có nói ông trời không xô ai vào bước đường cùng. Sau đủ thứ bất hạnh, rồi cũng đến lúc cả nhà chúng tôi dọn hành trang lên đường đi biệt xứ.

Sang được nước Mỹ rồi mới thấy lần đổi đời này cũng đột ngột và khốc liệt không kém. Cũng bắt đầu học và nghe ngóng cái gì nên làm, cái gì không nên làm. Đầu tiên tên họ chúng tôi bị đảo ngược khiến nhiều người dở khóc dở cười. Ông bạn của ông xã tôi tên Lê Lâm được đổi và phát âm thành Lâm-Ly (Người Mỹ thường phát Âm chữ lê thành chữ ly).Thế là từ đó anh ta trở thành “bi đát”, chưa kể trường hợp một số tên VN rất thông dụng khi được người Mỹ phát âm lên lại mang ý nghĩa kỳ quặc khiến họ đâm ra bối rối. Tên Hùng của VN lẫm liệt biết bao lại có nghĩa là bị treo cổ (Hang, hung, hung). Tên Bích lại trở thành “bich!”; Thanh-Trúc “Ten trucks” Thanh-Vân trở thành “ten vans”, Dung là phân trâu bò, Loan trở thành vay nợ. Dĩ nhiên ít ai muốn bị hiểu sai nghĩa tên mình như thế nên mong mau vào quốc tịch để thay tên thành Mike, william, Amber hay April v.v… Ông xã xệ của tôi cũng không thoát khỏi hoàn cảnh đó.

Anh là con thứ muời trong gia đình. Ông cụ sau nhiều lần nặn óc đâm mệt nên lấy ngay thứ mười đặt tên cho anh. Cái tên không mấy văn hoa theo anh tận xứ cờ hoa này cũng không thoát khỏi quy luật. Lê-Mười trở thành “Mười ly”. Người Mỹ hay hỏi nghĩa tên anh, lần nào anh trả lời cũng khiến cho ông bạn Mỹ lắc tai (Ten cups of wisky!!). Những ông bạn VN hay khôi hài gọi anh là ông lưu linh không biết uống rượu. Khi tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ, nhân viên phỏng vấn hỏi anh có muốn đổi sang tên Mỹ không anh không chịu đổi. Anh khôi hài là anh không muốn cai rượu.


Chúng tôi có cái may mắn làm chung ca, chung hãng nên rất tiện cho việc di chuyển. Hãng quá lớn chia làm hai khu vực: khu đông (east) và khu tây (west) nên các giờ break, luch chúng tôi phải bon chen lắm mới được chung giờ.

Anh có tính pha trò nên ai cũng mến. Thấy chúng tôi lo lắng cho nhau, nhiều bạn Mỹ hâm mộ hỏi chúng tôi cưới nhau được mấy năm, anh khôi hài 40 năm trừ 7 năm sống độc thân. Anh kể cho hắn nghe vì sao và vì sao bây giờ hai đứa không muốn rời nhau. Ông bạn Mỹ tròn mắt hắn bảo không thể tưởng tượng nổi tôi đã chờ chồng 7 năm trong hoàn cảnh khắc nghiệt sau 1975. Hắn bảo nếu là người Mỹ, hắn vừa nói vừa đưa một bàn tay lên cổ làm dấu cắt họng.

Được nước anh kể cho hắn nghe người đàn bà Việt-Nam đã quen chờ chồng khi người chồng bận đi chinh chiến; thậm chí có người bồng con lên ngọn núi cao mòn mỏi đứng nhìn ra biển chờ chồng đến nỗi hóa thành đá. Ông bạn Mỹ thật thà hỏi chắc chồng bà ta là thủy-thủ nên bà nhìn ra biển chờ chứ gì. Anh làm bộ nghiêm trang nói rất tiếc bà ta đã thành đá mất rồi làm sao hỏi được.

Các bạn Việt-Nam không hỏi những câu vớ vẩn như người Mỹ. Các cháu nhỏ tuổi hay hỏi anh quen tôi trong hoàn cảnh nào, anh trả lời vừa là sự thực thêm một chút hư cấu cho có vẻ romantic. Có đứa gốc Bắc kỳ hỏi kỹ hơn là trước khi quen tôi anh có quen ai trước không, anh trả lời là có quen với một cô Bắc-Kỳ khá xinh đẹp. Một hôm anh thình lình đến nhà vừa bước vào thấy cô em đang đứng nơi ngạch cửa gậm một cái đầu chó, anh choáng váng không phân biệt răng chó hay răng người đang nhe ra nên anh trốn biệt luôn. Sự thực anh chẳng quen cô Bắc kỳ nào cả vì có hôm ngồi chung với chị bạn, anh khen các cô Bắc-kỳ nói giọng ngọt như mía lùi (chị bạn là người Bắc); chị bạn hỏi anh Nha-Trang thiếu gì người Bắc sao không chọn một cô. Anh thật thà đáp chẳng có ma nào chịu lấy anh cả.

Một lần anh ngồi ăn một mình có ông bạn người Tàu gốc Chợ-Lớn hỏi anh Kim-Đồng đây còn Ngọc-Nữ đâu. Thay vì trả lời anh làm bên west side còn tôi làm bên east side, anh đọc một bài thơ chữ hán:

Quân tại tương giang đầu,
Thiếp tại tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm tuơng giang thủy


Ông xã xệ của tôi hay ba hoa vậy đó. Bốn mươi năm buồn vui với anh, mất bảy năm bị chia cách trong tù cải tạo, chúng tôi trân quý từng giây phút bên nhau. Đàn bà Việt-Nam chúng tôi trước mặt chồng ít khi bày tỏ tình cảm của mình bằng câu “em yêu anh” như người Âu Mỹ, nhưng nếu phải vì chồng mà đứng chờ, hóa thành đá được thì chắc sau năm 1975 nhiều tượng đá đã đứng chật đầu non …

Đặng Ngọc Nữ

Ý kiến bạn đọc
25/09/201221:25:39
Khách
Bài viết rất chân thật!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,630,329
Mười bẩy năm trước đây, ngày gia đình tôi vừa đến Mỹ, phóng viên nhật báo PEOPLE, có trụ sở đặt tại Muskegon City, thuộc tiểu bang Michigan đến phỏng vấn, cũng còn quá sớm, thời gian vừa chấm dứt chiến cuộc, vẫn còn có những sự kiện nóng bỏng, một số người Mỹ, nhất là nhóm phản chiến, chưa hiểu rõ người
Đã rất khuya mà Ngọc không tài nào chợp mắt được. Một phần có lẽ do hôm nay trời trở nên nóng lạ lùng làm Ngọc khó ngủ. Nhưng cái chính là Ngọc cứ mãi suy nghĩ về Ngày- của- Mẹ, ngày lễ mẹ đầu tiên trên đất Mỹ. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, sống ở Việt Nam, Ngọc đâu có hề biết hay nghe nhắc đến Ngày-của-Mẹ
Chiều thứ Bảy cuối năm Ất Dậu, ngồi chơi bên ly rượu tất niên ở nhà người bạn, vô tình cầm lên tờ báo Việt ngữ, tôi chợt bàng hoàng. Trong trang phân ưu lớn của tờ báo, người ta nói đến tên anh, thiếu tá Ngô Giáp. Chủ tịch hội ái hữu không quân Nam Cali, vừa qua đời ở tuổi 65! Đã 40 năm rồi từ ngày tôi biết anh
Ba mua cái bàn về rồi để đó đi làm.   Cái bàn còn nguyên trong thùng chưa ráp lạị   Bé Tí rủ: - Chị Tâm với em ráp cái bàn cho ba hen.    Tôi lắc đầu quầy quậy: - Tí rủ lộn người rồi.   Tay chân chị Tâm mà đụng vô mấy cái vụ này thì.... hỏng bét. Con Tí cười cười:
Rất vui khi nhận thư góp ý cuả ông về bài "Dậy Học Trên Đất Mỹ" mà tôi viết cách đây không lâu. Vui nhất là thư của ông đến từ   Cần Thơ,   một miền đất thân yêu mà chắc trong nhiều năm nữa, tôi chỉ còn có thể gặp lại trong những giấc mơ mà thôi. Điều vui hơn là sau khi ông gửi những thắc mắc ấy đến, tôi lại nhận đuợc một lá thư 
Gần hai mươi năm sau ngày miền Nam Việt Nam sụp đổ, Hoàng mới đặt chân đến nước Hoa Kỳ theo diện HO. Tuổi đời gần năm mươi, hai bàn tay trắng, nhờ sự giúp đỡ của hội Từ Thiện và bạn hữu phải làm lại từ đầu, chạy ngược chạy xuôi tìm việc làm để có tiền thanh toán nơi ăn chốn ở. Bạn hữu muốn anh có một
Thằng bé ngồi kế bên chị nó, đòng đưa hai chân trong đôi giày màu trắng có viền đen. Ngồi đối diện với hai chị em nó là người đàn ông có đôi vai gầy, đang chăm chú đọc tờ báo xếp làm đôi, tóc ông lòa xòa rơi xuống vầng trán có nếp nhăn li ti. Thằng bé đưa mắt nhìn đám trẻ tung tăng đùa giỡn trong khung lưới nhựa
Bản Quốc ca Việt Nam được mở đầu cho cuốn băng nhạc, những bản hùng ca thời chiến, mà tôi đã nghe đi nghe lại hơn mười lăm năm nay. Tôi thường tìm đến băng nhạc này mỗi khi lòng xôn xao nhớ về quê hương và những ngày xưa yêu dấu.   Trong lời ca điệu nhạc đầy hùng khí như vẫn còn vang dội những bước chân hiên ngang
Đã mấy lần tôi bỏ chúng ra khỏi túi hành trang chuẩn bị lên đường thì bà cụ lại lén chờ lúc tôi không có mặt bỏ chúng vào,   -hôm ấy là ngày 15 tháng 6 năm 1975, ngày chót theo lệnh trình diện lên đường đi tu huyền- tôi xách cái túi lên thì lại thấy đôi dép râu và bộ bà-ba đen đã nằm lại trong đó từ lúc nào. Bực quá tôi lấy chúng
Mỗi khi hạ về, ngày của Mẹ lại đến. Bất chợt, bâng khuâng, tôi bỗng thấy ganh tỵ với những ai còn được cài bông hồng trên áo!   Sự ganh tỵ ích kỷ, nhỏ nhoi nhưng thật khó tránh khỏi. Thế rồi mọi ký ức, kỷ niệm với Mẹ, về Mẹ lại ùa về vỡ òa từng rung cảm để tôi không thể không cầm viết.   Viết không hay, nhưng phải viết vì
Nhạc sĩ Cung Tiến