Hôm nay,  

Ánh Mắt

27/01/201300:00:00(Xem: 153034)
Tác giả sinh năm 1980, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu 2000, đã nhận giải Chung Kết 2008 với bài “Chuyện Của Cây Vông”. Thụy Nhã (hình bên) hiện làm việc trong một bệnh viện tại Nam Cali. Sau đây là bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Quý Tỵ, hiện đã phát hành khắp nơi.

Tôi đã vượt bao nhiêu ngọn núi, bao nhiêu cái đèo để tìm được mật gấu cho bà ấy. Tay bà ấy bị thương, người ta bảo chỉ có mật gấu mới chữa lành thế là tôi lao đi tìm. Vượt bao ngọn núi, bao cái đèo rồi tôi tìm được bọn lái buôn. Qua bao nhiêu khó dễ chúng cũng để lại cho tôi thứ mật gấu mà chúng bảo là nguyên chất. Rồi tôi lại lần mò qua con đường cũ cầm về cho bà ấy. Bọn lái buôn ấy có lương tâm ông ạ. Tay bà ấy khỏi hẳn sau khi thoa mật.

Ánh mắt người đàn ông sáng lên khi nhắc lại câu chuyện hơn mấy chục năm trước. Nó sáng như mắt người đàn bà khi đón túi mật gấu từ tay ông và để ông xoa lên tay mình.

Tôi ngồi một bên nghe ông kể lại câu chuyện cho người anh họ và hình dung khung cảnh của một tỉnh nhỏ mười mấy năm trước.

"Con Vàng đâu, con Vàng đâu"

Mỗi sáng sớm khi nghe ông gọi tôi đều chạy quắn đít. Tôi chạy khắp nhà trên xóm dưới không phải để tìm ông mà để trốn ông. Ông tìm con Vàng ở cửa trước tôi chạy cửa sau. Ông tìm con Vàng ở gốc cây đu đủ, tôi chạy trốn sau cửa bếp. Tôi không dám thở mạnh sợ ộng tìm ra tôi sẽ tìm ra luôn những tội lỗi mà bà đã tìm cách che dấu cho tôi ngày hôm trước. Chỉ cần nhìn vào mắt ông thôi là con bé con dù có rắn mắt cỡ nào cũng sợ khiếp đảm rồi không đánh mà khai, tôi sẽ làm cho ông ngứa mắt và hậu quả là ngày nào tôi cũng bị la một trận tơi bời. Ông có một cây roi rất lớn, nhưng chưa bao giờ ông mang ra doạ vì chưa thấy cây roi tôi đã cà lăm nặng rồi.

Thế là buổi sáng nào con Vàng cũng lủi thủi chạy trốn ông. Mặc dù nó không biết ông kiếm nó để làm gì. Mặc dù có thể ngày đó nó chưa kịp làm điều gì có tội nhưng vì bị ông la nhiều quá nên nó cứ trốn trước cho chắc ăn. Ngày nào ông không kiếm ra nó, nó thở phào nhẹ nhõm và tự cho là mình rất may mắn. Ngày nào bị ông mắng xối xả nó cụp mắt để ráng không khóc sợ ông la thêm. Sau khi bị ông la nó sẽ quay qua lẫy bà vì chỉ có bà là xuýt xoa mỗi lần nó hờn. Có ngày nó lẫy, doạ bà nó sẽ không ăn cơm nhưng khi bà đi ngủ trưa nó lén bà ăn liền tù tì bảy quả chuối tiêu. Bà thức dậy thấy nó vẫn chưa ăn cơm thì cho nó một đồng, thế là nó hết lẫy.

Tôi đi từ bắc vào nam anh ạ, mang cả gia đình. Tôi gồng, tôi gánh. Bỏ lại tài sản ở miền Bắc, tôi vào Nam cũng giống người ta, vợ con đùm đề. Rồi tôi bỏ gia đình ở lại Sài Gòn, một mình vào Đơn Dương lập nghiệp. Lạ nước lạ cái, tôi không muốn gia đình tôi khổ lây. Tôi đã biết lái xe ở Hà Nội thế là tôi bắt đầu đi buôn chuyến. Bà ấy là một trong những con buôn đi nhờ xe tôi. Tôi đã từng thấy bà ấy nhiều lần trên xe nhưng không cảm thấy gì. Vậy mà bỗng nhiên, khi tay bà ấy bị thương tôi biết tôi phải đi tìm mật gấu cho bà ấy. Nó giống như một sứ mệnh, không làm không được.

La con Vàng xong là ông tất tả đi Cà Tọt. Có khi bà đi theo, có khi bà ở nhà băm chuối cho heo ăn. Bỏ hết nhà cửa và một đội cyclo cho thuê ở miền Bắc, ông vào Nam gầy dựng lại từ đầu. Ông bắt đầu từ buôn chuyến cho đến khi tậu được miếng đất, cất được căn nhà rồi ông mua rẫy, làm vườn, trồng lúa, nuôi heo. Vợ ông giỏi giang, ông cầy sâu cuốc bẫm, bà cũng cầy sâu cuốc bẫm, đi rẫy về bà còn chăm chuồng heo, thổi cơm, gói ghém cơm cho ngày hôm sau. Bà còn làm bao nhiêu thứ việc không tên khác nhưng chẳng bao giờ bà lên tiếng than mệt. Làm mẹ của hơn mười người con tạo cho bà một sức chịu đựng phi thường. Gia tài ông gầy dựng, bà ra tay thu vén. Ông làm gì bà làm theo nấy, không một thắc mắc, không một nghi ngờ, toan tính. Đối với bà ông là chồng, bà là vợ, không có gì thay đổi được. Bà đi theo sự sắp xếp của ông như một sự sắp xếp của định mệnh.

thuy_nha
Thế rồi tôi đến với bà ấy. Rồi vài năm sau khi cơ nghiệp vững vàng tôi về Sài Gòn đón gia đình còn ở lại. Cho tới bây giờ tôi cũng không biết bà nhà tôi nghĩ gì. Ông đưa tay nhón cốc nước rồi hớp một hớp. Tính kể thêm gì đó mà ông lại quên mất rồi. Chứng bịnh đãng trí vừa chớm bắt đầu đã làm ông quên trước quên sau thế nhưng ông không thể nào quên ánh mắt sáng ngời khi ông bôi mật gấu lên cánh tay của người đàn bà không phải là vợ mình. Trong cả cuộc đời ông chưa bao giờ thấy hình ảnh chính mình sáng ngời như vậy.

Thế rồi con Vàng lớn lên, thế rồi ông già đi. Một buổi sáng mùa hạ nó đưa tay đỡ ông lên một chiếc thuyển buồm trên vùng biển Mễ Tây Cơ. Nó sợ ông ông trượt chân nên đứng kề sát bên. Nó vừa đỡ ông vừa nói ông dựa vào con cho khỏi ngã.

Chiếc thuyền buồm lướt sóng chở ông, nó và gia đình của chú và gia đình người anh họ của ông đến một bãi biển cạn để mọi người có thể xem cá và bơi lội. Đến nơi chiếc thuyền buồm neo lại, người chủ tàu cho nó một cái áo phao để nó có thể xuống nước chơi mà không sợ bị chìm. Nó nhìn xa xa, thấy cách đó khoảng ba mét là môt dãy núi đá đen, trên đó có những con cua đang bò trông rất hấp dẫn. Thế là nó lao vào nước và bơi đi. Vừa xuống nước nó phải rất khó khăn mới trồi lên được. Rồi với sự hỗ trợ của chiếc áo phao nó trồi lên từ từ và nó ra sức đạp nước đi về phía trước. Vậy mà mặc nó ra sức đạp, thân hình nó vẫn đứng yên một chỗ. Mọi công sức của nó đều bị sức nước cản lại.

Bơi qua bơi lại một hồi, thấy không đi tới đâu, nó quyết định quay lại thuyền chơi với ông. Vừa trở lại thuyền nó liền đi kiếm ông và kể cho ông nghe việc bơi lội khó đến đâu. Ông nhìn nó và nói có gì khó. Nó cười và chọc ông con đi còn khoẻ hơn ông mà còn chưa bơi được vậy mà ông nói không khó. Thế này nhé, ông nhìn thẳng nào mắt nó rồi dang hai tay lao vào biển. Trước khi nó kịp định thần ông đã bơi qua tới bờ bên kia. Mấy con cua đang từ từ giãn ra chừa chỗ cho ông ngồi.

Cách con Vàng chỉ có ba mét thôi là một ông lão nhưng ông không còn là một ông già chân đi không vững như mấy phút trước. Trước mặt nó bây giờ là một người đã từng vào Nam ra Bắc, từng một mình một xe vượt bao nhiêu ngọn núi, cái đèo để gầy dựng cơ nghiệp. Và nó, khi ở tuổi đời còn phơi phới và khoẻ mạnh thấy mình cách thua xa ông cả một đại dương. Nó nhìn ông mình và mắt sáng ngời. Và nó nhận ra, trong cuộc đời tung hoành ngang dọc của ông, hẳn nhiên là đã có những người từng nhìn ông với ánh mắt như vậy. Chỉ cần môt giây phút thôi, đủ để một người tầm thường trở nên phi thường. Chỉ cần một giây phút thôi, để làm một ánh mắt ngời sáng suốt cả cuộc đời và gắn chặt người với người.

Năm nay ông già thêm một tuổi và quên đi nhiều hơn một chút. Những nhân vật trong câu chuyên đã thành người thiên cổ. Mỗi lần con gặp ông dù quên cách mấy ông cũng đều hỏi con có còn đi học không và câu khuyên của ông luôn luôn là học đi con, cái học không bao giờ thừa. Chắc ông biết con không có gì giỏi nên nếu không đi học thì không nuôi thân được.

Ông Nội thương,
Khi được ngồi bên cạnh ông, nghe ông dặn dò khuyên nhủ, con lại thấy mình nhỏ lại như con Vàng lon ton chạy sau vườn ngày nào. Cứ vậy nha ông, ông và cả gia đình mình bước vào năm mới thật khoẻ mạnh để con được nhìn ánh mắt rạng ngời của ông và được tựa vào ông như một cái cây được tựa vào núi thái sơn.

Thụy Nhã

Ý kiến bạn đọc
28/01/201307:27:07
Khách
Bài viết lung tung quá!
28/01/201304:33:13
Khách
Thuỵ Nhã, lâu quá mới đọc được bài của em. Anh Văn thích bài này lắm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 861,837,500
Với bài "Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine", tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và vừa nhận thểm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. làm việc tại Bộ Xã Hội. Đến Mỹ khi còn tuổi học trò, cô thuộc "thế hệ gạch nối" của người Việt tại Mỹ. Với bài viết về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu, Bảo Trân đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm - thường gọi đùa là giải á hậu - Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài viết mới của cô.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông. Sau giải Đặc Biệt năm 2017, với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông được trao thêm giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông, từ Cameroon, một nước ở miền trung Phi châu.
Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20 trân trọng chào mừng thêm một người viết mới. Theo bài viết, từ 1978, Ngọc Ánh đã là tác giả những trang nhật ký của một nữ sinh viên viết từ Sài Gòn, được đăng trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và từ 1979 thì cả nhà người viết đi tù. Người chồng bị kết án tử hình. Cháu bé mới sinh một tuổi theo mẹ vô nhà tù. Nhưng hơn 10 năm tù đày cộng sản không làm bà gục ngã. Và rồi, tình yêu đến... Thư kèm bài, bà viết “Tôi tên thật là Trần Ngọc Ánh, hiện đang sống tại thành phố Victorville, CA. Lần đầu tiên tôi viết bài tham dự "Viết về nước Mỹ" và hy vọng sẽ có nhiều bài viết về chủ đề này gởi đến Việt Báo trong năm nay...” Khi thêm bài mới, mong tác giả bổ túc ít dòng tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Tháng Năm 2018, tại Việt Báo Gallery, có buổi ra mắt sách Anh ngữ "Finding My Voice—A Journey of Hope” tác giả Crystal H. Vo tức Võ Như Ý, một tác giả từng dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009. Cô sinh năm 1970 ở Đà Nẵng. Năm 15 tuổi vượt biên cùng một người anh, tới Mỹ năm 1986 và thành công dân Mỹ với tên Crystal H. Vo. Cô hiện là cư dân San Gabriel, CA. và làm việc tại Sở Xã Hội Quận Hạt. Trong những năm ngừng viết về nước My,õ cô kết hôn, thành con dâu một gia đình Mỹ và đã dành trọn thì giờ để học sống và viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô sau họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016. Với sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, bà có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, là bài viết mới nhất, khi tác giả bay từ Arkansas về họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Và...
Chỉ với bài viết đầu tiên, tới vào tháng cuối, Tác giả đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, tác giả viết “Tôi tên Tố Nguyễn, đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi mục Viết Về Nước Mỹ. Tôi rất xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ, giờ tôi xin góp câu chuyện thật của tôi...” Sau bài đầu tiên, bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết của cô về lần đầu họp mặt Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1953, tốt nghiệp Sư Phạm Sài Gòn khóa 12. Vượt biên sang Mỹ 1982, và từ đó tới nay định cư tại San Jose; Nghề nghiệp: Mechanical Designer, về hưu tuổi 65. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện vui về nhóm bạn trường Sư Phạm Sài Gòn, khóa cuối cùng, ra trường năm 1975, kèm lời ghi của tác giả: “Thân tặng các bạn lớp Nhất 9/Nhị 15, khóa 12 (1973-75) Sư Phạm Sài Gòn.”
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tháng Bảy, mùa Vu Lan, xin mời đọc bài viết về Mẹ của Minh Nguyệt Graves. Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018.
Nhạc sĩ Cung Tiến