Hôm nay,  

D Day

06/06/201400:00:00(Xem: 35454)

Tác giả: Đoàn Thị
Bài số: 4243-14-29643vb6060614

D DAY_2Tác giả định cư tại Pháp, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, Đoàn Thị đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Tuy sống tại Pháp, bài viết của tác giả thường là những đề tài và khung cảnh đời sống Việt tại Mỹ. Đây là bài viết mới nhất sau hơn một năm ngưng bút, bài viết đặc biệt của tác giả để tưởng niệm ngày Quân đội Mỹ và Đồng minh đổ bộ vào Normandy 6 tháng 6 năm 1944.

* * *

Ngày sáu tháng sáu năm 44, ngày «D Day» quân đội Mỹ và đồng minh đổ bộ vào vùng biển Normandie phía bắc nước Tây, bắt đầu trận chiến khổng lồ về mọi mặt, từ chiến xa, tàu chiến, máy bay… và quân số tử vong từ hai phía cũng đồ sộ như bãi chiến trường dạo đó.

Trong số hơn bảy mươi ngàn quân nhân Mỹ tham trận, David cùng đồng đội vừa đổ bộ vào bãi Omaha còn được gọi là «Bloody Omaha» (bãi tử thần) trong tiếng bom rơi đạn nổ tứ phía, đồng đội của David có đứa chưa bước chân lên bờ đã tan xác, chàng thanh niên đến từ xứ Mỹ xa xôi như say thuốc súng, chỉ biết bắn với bắn. David tỉnh dậy trong trại dưỡng thương, ông sống sót nhưng vật vờ như người từ cõi chết sống lại. Sau khi bình phục David ở lại tỉnh Calvados làm việc cho chủ quán cà phê thuốc lá, một cựu quân nhân Mỹ như ông, có bán cả bia và bánh mì Hamberger. Ngày trở về Mỹ ông mang theo một số hình của Monique, mẹ của Annie và ông không hề biết mình đã để lại giọt máu trên vùng biển ám mùi chết chốc này.

Trước khi chết, Monique trao cho Annie mấy tấm hình của cha, một hải quân Mỹ tên David R., có ghi ngày tháng năm sinh, quân số xyz... Đúng như Annie từng linh cảm, tuy trong khai sinh bà mang tên cha như các em, nhưng sao bà không giống họ, cũng gốc Âu Châu nhưng trông bà có cái gì khan khác mà bà không tìm ra nguyên nhân.

Cầm hình cha trong tay bà thất thần, vui mừng vì biết người cha thật của mình là ai, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu để tìm cha, chừng đó thời gian xa cách, không biết giờ này ông còn sống hay đã chết.

Chôn cất mẹ xong, Annie mất ăn mất ngủ vì bức ảnh kia, có đêm bà mơ thấy một ông Mỹ già gõ cửa nhà bà, bà bừng tỉnh mồ hôi ướt đẫm lưng áo, giấc mơ ám ảnh bà đến nỗi bà rơi vào cơn trầm cảm.

Tội nghiệp Henri nghĩ vợ bị áp lực công việc mới ra nông nỗi nên khuyên bà lấy vài ngày phép ra biển đổi gió. Annie lắc đầu ôm mặt khóc nức nở, bà đưa hình David cho chồng xem và kể về người cha mà bà vừa biết từ khi mẹ mất. Với thông tin ngắn gọn, tên tuổi, đơn vị công tác, ngày hồi hương, Henri lên mạng tìm kiếm mấy hội cựu chiến binh trong trận đổ bộ Normandie dò la tung tích ông tía vợ xa xôi diệu vợi. Phải mất mấy tháng Henri mới tìm ra David R. trong hải đoàn XYZ…, ông hiện ở tận tiểu bang Montana.

Tìm được cha nhưng Annie đâm hoảng, David sẽ nghĩ gì sau gần bảy mươi năm rời bỏ chiến trường, Annie bỗng xuất hiện như nhân chứng sống của mối tình hời thời trai trẻ bồng bột. Liệu ông cụ có dễ dàng chấp nhận cô con gái «từ trên trời» rơi xuống, đột ngột hơn cả lính nhảy dù thời xưa, rồi vợ con của ông sẽ phản ứng ra sao. Những câu hỏi làm Annie chùn bước, bà lại khóc, bỏ ăn, khổ thân Henri phải ra tay nghĩa hiệp, ông viết điện thư cho tía vợ nhắc nhở đến quán cà phê ở Calvados và Monique ngày xưa.

Thư qua thư lại David cũng thất thần như Annie, vì ông không ngờ đã để lại giọt máu của mình trên đất Tây, nhưng ông rất vui khi biết Annie đã cất công tìm ông và ông có thêm đàn cháu «Phờ răng xê» chưa biết mặt.

D DAY_1Ngày 6 tháng 6 năm nay là ngày kỷ niệm bảy mươi năm ngày lực lượng đồng minh đổ bộ vào vùng biển Normandie, sẽ có nhiều cựu chiến binh của tất cả đồng minh tham chiến đến dự với sự hiện diện của gần hai mươi vị nguyên thủ quốc gia. Khách sạn vùng này đã hết chỗ từ năm ngoái, ban tổ chức ngày hội đã chuẩn bị cả năm trước, dự kiến du khách sẽ tăng kỷ lục, báo chí truyền hình từ đầu tuần ngày nào cũng có bài về «D Day» với đủ tài liệu phim ảnh đi kèm. Quà kỷ niệm mang dấu tích chiến trường xưa rất phong phú, nón, áo, phù hiệu, cờ đã được dự trù với số lượng lớn, mấy tay phó nhòm tài tử chuyến này hốt bạc.

Gia đình Annie cũng chộn rộn không kém ban tổ chức D Day, con trai, con gái, dâu rể, sui gia, bên gia đình Henri, các em của Annie, bà con gần xa, ai cũng háo hức chờ diện kiến lão Veteran David R. Ban tiếp đón «người hùng» của thế kỷ trước sẽ trở lại chiến trường xưa, gần năm mươi mạng chia nhau công tác có một không hai trong đời họ, từ tiếp đón, ăn ở, du ngoạn, đi thăm nghĩa trang chiến sĩ.., ai có việc nấy. Tự nhiên có một bô lão lạ hoắc từ bên kia đại dương làm lay động cả bộ tộc nhà này, đặc biệt thằng cháu nội lớn nhất của Annie, Thomas chuẩn bị huy hiệu «nhận diện ông cố ngoại» gốc mẽo.

Ngày ra phi trường đón cha, Annie sẽ mang tấm hình David ngày xưa trong bộ quân phục hải quân với hình mẹ được phóng to để ông cụ dễ nhận diện người nhà. Ngoài ra Thomas còn làm một số «badge» (thẻ nhận dạng) ép nhựa, trong đó có hình bà cố và ông cố ngoại từ thuở xa xưa, mặt sau là hai lá cờ Mỹ Pháp, để mỗi người đeo lên ngực đi dự ngày D Day, tình hữu nghị hai xứ bỗng dưng thắm thiết khác chi tình tự cặp uyên ương ngày xưa.

Hôm trước nói chuyện điện thoại với David, thấy cha già yếu Annie đâm lo, sợ cụ chịu không nỗi chuyến đi xuyên đại dương này, nhưng cụ nhất định sẽ qua đây để nhận con cháu, để cha con nhìn nhau. Mấy thằng Tây con đứng gần đó cười khúc khích, có đứa hỏi:

- Bà nội học tiếng Anh hồi nào vậy, sao bà không nói với tụi con.

Annie khỏ đầu thằng nhóc:

- Cha mi, tự nhiên nói tiếng Anh làm gì, mà bà nói tiếng Anh chen thêm tiếng Tây chứ làm sao bà nói được hết câu bằng tiếng Anh.

Một đứa khác thắc mắc:

- Như vậy làm sao ông cố hiểu tiếng Tây của bà nội?

Annie chưa kịp trả lời đã có đứa lanh chanh:

- Xời ơi vậy mà cũng không hiểu, hồi trước ông cố phải nói tiếng Tây mới «cua được» bà cố chứ, phải không bà nội ?

Annie cười:

- Mai mốt ông cố qua đây chúng mày tha hồ hỏi.

D DAY_3Phái đoàn ra phi trường đón ông David chỉ có mười người, đám nhóc cầm cờ Pháp cờ Mỹ chạy loạn cào cào trước cổng dành cho khách đến khiến nhân viên an ninh phải «dẹp loạn» bằng cách bắt mấy em đứng bên cạnh người thân. Giờ G cụ David gầy nhom lửng thửng đi ra cổng, Annie đưa tấm hình lên cao, đám nhóc bắt chước quơ cờ lia lịa, làm ông cụ hoa cả mắt. Hai cha con ôm nhau khóc nức nở, trong khi tụi nhỏ trố mắt không hiểu vì sao họ khóc, đáng lý gặp nhau phải mừng chứ. Một lúc sau ông cụ xoa đầu tụi nhỏ nói:

- Bonjour

Đám nhóc đồng thanh,

- «ế lô» ông cố

David vịn tay Annie đi ra xe, đám con nít theo sau lại quơ cờ làm ông cụ cảm động đến rụng tim, đám cháu mới gặp chưa biết tên mà sao chúng nó tình cảm thế nhỉ.

Để cụ nghỉ ngơi một ngày, chiều hôm sau sân nhà Annie đèn hoa chăn ngang chăn dọc, một lò than lớn bốc khói thơm lừng mùi xúc xích, sườn cừu, đùi gà… nướng, ba dãy bàn dài đầy áp thức ăn, rượu đủ loại, bánh kem, trái cây… ngon lành như tiệc cưới. Trước khi nhập tiệc, Annie giới thiệu các con, dâu rể, cháu chắt với cụ, sau đó là sui gia họ hàng xa gần, ông cụ chóng mặt với ban tiếp đón hùng hậu ngoài sức tưởng tượng của mình. Tội nghiệp ông cụ vì trái múi giờ nên mới có sáu giờ chiều mà ông gật lên gật xuồng, Annie xin phép mọi người đưa cụ vào ngủ.

Mới sáu giờ sáng ông cụ đã thức giấc, Annie pha cà phê, David mang quyển album mà ông cất giữ mấy chục năm nay cho Annie xem, đây rồi, hình ông và Monique tình tứ trên băng ghế công viên, hình hai người trước cửa nhà thờ, tấm hình cuối cùng họ chụp với nhau trước khi ông trở về Mỹ. Sau đó hai người liên lạc thư từ được vài tháng rồi cả hai bặt tin, David lấy vợ dọn đi nơi khác, chuyện tình bên kia đại dương coi như nước chảy qua cầu. Bên này Monique bỏ nhà lên tỉnh một mình sinh con, năm sau bà lấy chồng và Annie mang họ người cha kế nên bà không biết cha mình là một veteran Mỹ.

Dưới ánh nắng ban mai, ông cụ chín mươi tuổi bên cô con gái sáu mươi chín, hai mái đầu bạc phơ ôn lại những ngày «đại loạn» thuở đó. Bên cạnh cái chết tức tưởi của hàng vạn chàng trai thời loạn còn có sự tái sinh của hàng vạn cô cậu mang hai dòng máu như Annie ra đời, và có bao nhiêu người đã được thừa nhận hay họ còn đang tìm về nguồn cội của mình. Bỗng Annie rùng mình nói với cha:

- Tạ ơn thượng đế đã cho con tìm ra cha, nhưng còn những người chưa tìm được cha của họ thì sao, hoặc có tìm ra thì cha họ đã chết rồi.

David ôm vai con gái:

- Chiến tranh là vậy, tàn bạo, lạnh lùng, có những đồng đội của cha chết ngay ngày ra quân, những người sống sót có người mang thương tật, hoặc trở nên thất chí ngày họ trở về cuộc sống dân sự vì họ bị chiến tranh ám ảnh. Cũng có người mang vợ con trở về Mỹ, nhưng cũng có những đứa con lai bị quên lãng vì nhiều lý do, cha con mình thật may mắn.

Ngày mai «bộ tộc» của bà Tây lai Mỹ gần năm mươi mạng sẽ ra quân trong đội ngũ tham dự đại lễ với một số bảng hiệu cầm tay có tên David R đến từ Montana, cờ xí, nón «cu bồi» của đám cháu chắt Tây… tất cả đã được ban tổ chức của bộ tộc chuẩn bị đầy đủ. Cụ David sẽ diện bộ quân phục để phó nhòm Thomas chạy tới chạy lui lấy hình bán thân, toàn thân, cận cảnh, toàn cảnh… lũ con nít tha hồ quơ cờ đến mỏi tay.

Henri lo mục phỏng vấn ông tía vợ với báo chí địa phương, chuyến này ông cụ nói tiếng Tây đến líu lưỡi, Henri cũng dự trù chỗ nào cụ bí thì Henri sẽ dịch lại cho cụ hiểu.

Annie chỉ có nhiệm vụ tháp tùng nhân vật quan trọng, giây phút vinh hạnh nhất đời bà, ngày mà cụ David được vinh danh là một chiến binh đã góp phần giải phóng nước Pháp.

Ngoài buổi lễ rình rang kia là mấy câu tiếng Tây tiếng Mỹ đơn sơ dễ nói, đã làm mọi người cảm động đến rơi lệ.

Đám Tây nói:

- I love you David

Veteran Mỹ trả lời”

- Moi aussi, je vous aime

Đoàn Thị

Ý kiến bạn đọc
11/06/201405:38:55
Khách
Thuy, Khôi An mến,
Cảm ơn hai bạn đã ghé qua và để lại những góp ý chân tình.
09/06/201420:31:34
Khách
Câu chuyện cảm động được thuật lại bằng giọng văn dí dỏm. KhA thích đọc văn của chị.
06/06/201419:59:19
Khách
Mot cau chuyen that cam dong ,chua chan tinh nguoi ! Hay lam !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,425,453
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến