Hôm nay,  

Tết Ta Trên Đất Khách

02/02/202210:57:00(Xem: 2486)

Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016 , Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19 và 21.

*
K
hông biết gọi những cái Tết tại Mỹ là “Tết Ta trên đất khách” có thật sự chính xác hay không khi thời gian tôi sinh sống tại đây đã vượt qua thời gian tôi ở quê nhà, nhất là khi mình đã nhận nơi này làm quê hương thì sao lại có thể gọi đây là đất khách? Nhưng thôi cứ tạm gọi như thế để phân biệt với những cái Tết tôi được đón tại quê nhà.

Cái Tết Nguyên Đán đầu tiên xa quê hương của tôi là Tết Canh Ngọ năm 1990. Trước đó có một sự việc hoàn toàn nằm ngoài dự tính của gia đình, đó là tôi cùng  một người chị phải chuyển đến trại tị nạn Bataan ở Philippines thay vì được bay thẳng vào Mỹ. Thế là cái Tết Nguyên Đán đầu tiên làm thân phận người tha hương của tôi được đón tại đất Phi thay vì ở Mỹ như vẫn dự đoán trước kia. Xa quê hương, xa gia đình, chỉ có hai chị em sống chung nhà với hai cô cháu của một gia đình khác đi vượt biên nên chúng tôi không hề chuẩn bị gì cho ngày Tết năm ấy. Thêm vào đó chúng tôi vẫn phải đi học cũng như làm việc như thường lệ. Buổi sáng ngày 30 Tết trên đường đi đến lớp học nhìn những căn nhà của những người có gia đình trọn vẹn sống chung trong trại bày biện các chậu hoa, trang hoàng nhà cửa, và đâu đó tiếng nhạc Xuân vọng ra từ máy cassette “Mẹ ơi hoa cúc hoa mai nở rồi …”, tôi đã phải cố gắng kìm nén để không phải chảy nước mắt cho lần đầu đón Tết xa nhà.

Buổi tối hôm đó lớp AT (Assistant Teacher) của chúng tôi có tổ chức một bữa tiệc tất niên và mời các thầy cô người Phi, Mỹ cùng tham gia. Sự việc này cũng làm cho tôi khuây khỏa đi một phần nào nỗi buồn tiếc nuối Tết năm xưa.

VVNM_Thảo Lan_02022022
Hình chụp buổi tiệc tất niên Xuân Canh Ngọ năm 1990 của lớp AT chúng tôi tại trại tị nạn Bataan, Philippines.hêm chú thích



Tết Tân Mùi năm 1991 là cái Tết đầu tiên tôi đón trên đất Mỹ trong cái không khí giá lạnh của mùa Đông Virginia. Đó cũng là năm đầu tôi phải vật lộn với sách vở ở giảng đường đại học bên cạnh công việc làm sau giờ học nên cũng không có thì giờ để nghĩ nhiều đến Tết. Bù lại tôi được thưởng thức các món ăn truyền thống ngày Tết do mẹ tôi làm như giò thủ, chả giò, canh măng, nồi thịt kho trứng, v.v… Dĩ nhiên có một món không thể thiếu là nồi bánh chưng to khổng lồ nấu trên bếp ga. Căn apartment nhỏ, kín như bưng chứa hơi nước sôi thoát ra từ nồi bánh đến mức bão hòa không thể nào chịu đựng thêm. Từ trần nhà hơi nước đọng lại và bắt đầu nhỏ tong tong xuống đồ đạc bên dưới. Bức tranh treo trên tường bị hơi nước làm ẩm mục tấm bìa sau lưng nên đã rách ra và rơi xuống sàn nhà, may mà kính không vỡ. Cuối cùng, mặc cho nhiệt độ bên ngoài chỉ chừng trên dưới 32°F (0 độ C), chúng tôi đã phải mở to hai cánh cửa sổ ra để giải toả bớt hơi nước trong nhà.

Năm đó anh bạn Việt Nam mới quen học cùng trường community college đã ghé lại chở tôi đi hội chợ Tết Việt Nam tổ chức vào ngày cuối tuần. Thành phố nhỏ ít dân Việt Nam nên hội chợ Tết cũng nhỏ làm trong một hội trường cũng nhỏ của một trường trung học. Tôi không hề có một ấn tượng gì đặc biệt khi tham dự hội chợ Tết lần đầu tiên ở Mỹ này. Mọi sinh hoạt chỉ quanh quẩn trong cái hội trường chật hẹp. Một vài bàn được bày ra để bán các món ăn ngày Tết cổ truyền mà hầu hết đều đang hiện diện trên bàn ăn của gia đình tôi nên đối với tôi không lấy gì làm hấp dẫn cho lắm. Thành phần tham gia ngoài ban tổ chức trong cộng đồng người Việt và các cô bác lớn tuổi tham gia quầy bán hàng, phần lớn là những thanh niên trẻ tuổi và độc thân như tôi. Thú thật đến lúc này tôi mới hối hận là đã theo chân anh bạn tới đây. Giờ này giá mà ở nhà hưởng cái Tết đầu tiên ở Mỹ sum họp với ba mẹ có cả gia đình người anh lớn từ North Carolina ghé lên chơi chắc chắn là thú vị hơn đứng loanh quanh trong hội trường chật hẹp với toàn người xa lạ như thế này. Đa số thanh niên tham gia hội chợ Tết là để dự buổi dạ vũ lúc về khuya. Lúc đó tôi chưa biết lái xe nên mọi chuyện phải lệ thuộc vào anh bạn Việt Nam là người quen duy nhất đưa mình đến mà anh bạn trẻ này lại là tay trống trong ban nhạc nên sẽ ở lại đến giờ chót. Thật may trong lúc đứng láng cháng không biết làm cách nào để về nhà ăn một bữa cơm Tết với gia đình thì gặp hai mẹ con một người bạn của vợ chồng anh tôi. Sau vài câu chúc Tết, lì xì cháu bé và chờ chị ấy tay bắt mặt mừng với những người quen biết, tôi đã ngỏ lời nhờ chị chở tôi về nhà để kịp tham dự bữa cơm ngày Tết với gia đình.

Những cái Tết sau đó cũng không khác gì cái Tết đầu tiên ở Mỹ, cũng vẫn vật lộn với bài vở mà mình phải lõm bõm lội trong mớ tiếng Anh chưa rành rọt. Cũng vẫn những món ăn ngày Tết và nồi bánh chưng mà ba mẹ tôi cố gắng bày ra để giữ không khí Tết trong gia đình. Hội chợ Tết hàng năm vẫn được cộng đồng tổ chức nhưng với tôi không khí Tết trong gia đình mới khiến tôi đỡ nhớ những cái Tết năm xưa. Dạo đó những hội chợ Tết như thế này cùng với các buổi dạ vũ mùa Noel chính là dịp để cho các thanh niên nam nữ có cơ hội làm quen với nhau. Phần tôi tuy vẫn còn độc thân nhưng tự thấy mình tương lai trước mặt vẫn còn mịt mù, vốn liếng Anh Văn ít ỏi cần phải bỏ nhiều thì giờ vào bài học hơn so với những sinh viên đồng hương vào trường ngay sau khi tốt nghiệp trung học ở Mỹ nên khi ấy tôi chỉ dám vui Xuân trong phạm vi gia đình.



Từ khi vừa định cư, ba mẹ tôi đã kiếm việc làm để không phải lệ thuộc vào con cái bên Mỹ cũng như có thể tiếp tục làm mạnh thường quân giúp đỡ cho các con cháu còn kẹt lại ở Việt Nam. Tuy đã lớn tuổi nhưng ba mẹ tôi vẫn sẵn sàng xung phong làm thêm giờ mỗi khi có dịp để kiếm thêm thu nhập cho đồng lương tối thiểu nhận được khi ấy. Mặc dù thế mỗi dịp Tết đến, ba mẹ tôi vẫn luôn lấy ngày phép nghỉ để chuẩn bị đón Tết và điều quan trọng là để giữ vững truyền thống ngày Tết trong gia đình cho con cháu, nhất là cho các cháu nhỏ sinh ra ở Mỹ biết được thế nào là ngày Tết cổ truyền của cha ông.

Trước năm 1975 tôi có đọc một bài viết ở một số báo Xuân trong đó nhân vật chính hồi tưởng về những cái Tết năm xưa của mình và nhắc nhở người con hãy xếp bài vở qua một bên để chuẩn bị cùng đón Giao Thừa với gia đình. Mặc dù rất thích bài báo đó nhưng tôi cảm thấy chi tiết này thật vô lý vì có ai vào ngày cuối năm còn có thể ngồi học bài trong không khí Tết tưng bừng như vậy. Ấy thế mà chuyện đó lại vận đúng vô tôi vào một buổi tối Giao Thừa của một năm đầu thập niên 1990. Trong khi mẹ tôi bày biện nấu nướng các món ăn ngày Tết, ba tôi dọn dẹp chưng bày bàn thờ thì tôi ngồi trong phòng mình để vật lộn với cái project sắp tới hạn nộp bài của môn điện, môn học mà tôi không hề thích. Đúng lúc đó mẹ tôi mở cửa phòng và gọi tôi ra. Câu nói của mẹ tôi chẳng khác gì câu nói của người mẹ trong bài báo năm xưa, "Thôi tạm dẹp bài vở đi con, Tết rồi mà."

Thế rồi tôi có gia đình riêng của mình. Mỗi dịp Xuân về Tết đến, vợ chồng tôi lại tiếp tục truyền thống mà ba mẹ mình vẫn làm khi xưa. Chúng tôi vẫn cố gắng bày ra các món ăn trước để cúng ông bà tổ tiên, sau để con cháu cùng thưởng thức. Chúng tôi cũng lau chùi bàn thờ sạch sẽ tươm tất, mặc dù không có bộ lư đồng để đánh bóng như khi còn ở Việt Nam. Gia đình chúng tôi cũng lên chùa lễ Phật đầu năm và dĩ nhiên không quên tục lì xì cho các con để các cháu hình dung ra được không khí ngày Tết của ba mẹ chúng ngày xưa ra sao. Có năm tôi còn chịu khó đặt mâm cúng giao thừa ngoài trời trong cái lạnh cắt da của mùa Đông ở đây. Tuy vậy ở vùng hẻo lánh ít người Việt này, nếu gặp năm Tết vào cuối tuần thì còn xôm tụ một chút, chứ bình thường thì người lớn đi làm trẻ con đi học có lẽ các con tôi không thể nào hình dung được Tết có gì đặc biệt mà sao ba mẹ chúng cứ hay nhắc đến một cách hào hứng như thế. Cũng vẫn ngần ấy nội dung mà cứ lập đi lập lại hàng năm không chán. Các cháu đâu biết rằng ba mẹ lại làm công việc mà ông bà các cháu ngày xưa đã làm để cố gìn giữ lại một ít truyền thống của ngày Tết ở nơi đất khách quê người.

Mỗi độ Xuân về, người Việt Nam chúng ta cho dù ở Bắc Bán Cầu lạnh lẽo tuyết phủ hay giữa mùa hè ở Nam Bán Cầu có lẽ đều có chung một cảm nghĩ đó là song song với việc chuẩn bị đón mừng một cái Tết Nguyên Đán sắp tới thì luôn bồi hồi tưởng nhớ đến những cái Tết năm xưa. Nhưng có thật là vì phải sống cảnh tha hương nơi đất khách quê người mới khiến ta tưởng nhớ, tiếc nuối các Tết năm xưa hay còn vì lý do nào khác? Như đã đề cập ở trên về bài viết trong một số báo Xuân trước năm 1975, tác giả bài viết đã hồi tưởng lại những cái Tết xa xưa khi mình còn nhỏ. Tác giả nhớ đến những phong tục mà đã mai một như súc sắc súc sẻ, hình ảnh những phiên chợ quê, v.v... Vào thời điểm tôi đọc tờ báo Xuân đó tôi vẫn còn đang độ tuổi tận hưởng tối đa hương vị Tết của hiện tại nên tôi không hề có một mảy may suy nghĩ gì về những cái Tết trước đó chứ đừng nói gì đến luyến tiếc. Vài năm sau đó khi chúng tôi cùng những người dân Sài Gòn phải đón những cái Tết khó khăn thì hình ảnh những cái Tết sung túc đầm ấm trước kia mới bắt đầu thoáng hiện trong đầu óc. Như vậy đâu cần phải làm kiếp người tha hương mới khiến ta có cảm giác nuối tiếc những mùa Xuân trước. Phải chăng Tết trong ký ức ta vẫn luôn là những cái Tết đẹp nhất?

Biết đâu trong khi tôi đang ngồi đây hồi tưởng về những Tết xa xưa thì chỉ vài năm sau tôi lại cảm thấy luyến tiếc đến cái tết Nhâm Dần sắp đến này khi các con vẫn còn ở quanh mình như tôi đã từng nhớ nhung muốn quay trở lại thời điểm được đón những cái Tết cùng ba mẹ khi mới chân ướt chân ráo đến Mỹ? Mỗi một cái Tết đến rồi lại đi đều ghi lại một dấu ấn trong ta mà có thể ngay lúc đó vì mải mê luyến tiếc quá khứ mà ta đã không để ý đến. Hy vọng rằng những gì chúng tôi đã và đang làm để theo chân ba mẹ mình ngày trước sẽ ít nhiều gieo vào ký ức các con, thế hệ Việt Nam sinh ra và lớn lên tại Mỹ chưa từng có dịp đặt chân lên quê hương của ba mẹ, một hình ảnh đẹp đẽ về một cái Tết cổ truyền của cha ông.

Thảo Lan

Hình chụp buổi tiệc tất niên Xuân Canh Ngọ năm 1990 của lớp AT chúng tôi tại trại tị nạn Bataan, Philippines.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 536,330
Mấy nay công việc trong hãng chậm quá, đơn hàng hổng có, mọi người tụm năm tụm ba nói dóc, bàn tán cả ngày. Mỗi nhóm có đề tài khác nhau. Nhóm đen tụi thằng Kieth, thằng Eddie, thằng Aaron… thì lúc nào cũng chuyện cá độ bóng chày, bóng rổ, bóng cà na, chuyện cầu thủ này chơi đẹp, cầu thủ kia xuất sắc, chuyện thằng Willi tát xướng ngôn viên trên thảm đỏ giải Oscar… Nhóm gốc mít như anh Tuấn, thằng Khôi thì toàn chuyện Việt kiều về nước ăn chơi, chuyện ông này bà nọ ăn bẩn...Nhóm thằng Andre, Jose… thì tám chuyện Mễ Tây Cơ. Nhóm đàn bà thì hổng biết nói chuyện chi nhưng chưa bao giờ thấy miệng nghỉ ngơi, kể cả lúc ăn uống, tám liên tu bất tận.
Dưới ánh nắng chiều chói chang, nhìn những quân nhân huấn luyện oai vệ với tác phong nghiêm chỉnh, các nam nữ tân binh mạnh mẽ, nhanh lẹ trong quân phục của người lính, ba-lô nặng trĩu trên vai đi đứng thao tác gọn gàng ngoài sân trường, các cô cậu học sinh thích thú xầm xì to nhỏ với người thân. Đi ngang cổng chính chúng tôi thấy câu phương châm của trường được ghi đậm trên cao “ We will not lie, steal, or cheat, nor tolerate among us anyone who does ” như một huấn từ của khóa sinh. Kế tiếp, chúng tôi được đưa tới sân cờ nơi có một bức tường đá đen dài gần ba thước hơi uốn cong có ghi tên các sĩ quan tử trận trong chiến tranh với dòng chữ được khắc như sau “ In Memory Of Our Fellow Graduates Who Have Fallen in Battle.” để mặc niệm!
Viết những dòng tâm can này vào ngày Nguyễn Văn Kỷ Ngọc Thuyền - bé Bi con tôi tròn 46 tuổi, trái tim thương tật của người cha Mai Quan Vinh chỉ khát khao duy nhất một điều, lần cuối trong đời cha được ôm chặt bé Bi vào lòng nghe con khẽ gọi hai tiếng “Cha ơi!…”
Quốc Kỳ của một quốc gia dĩ nhiên luôn luôn phải được tôn kính, yêu mến và trân trọng từ người dân của đất nước đó, bởi mỗi một đất nước vĩnh viễn chỉ có một Tổ Quốc và một Màu Cờ, nhưng bất hạnh thay lịch sử đã ghi lại biết bao nhiêu quốc gia sau cơn binh biến, hay sau những cuộc chiến tàn khốc, đất nước đã phải thay tên đổi họ, và lá quốc kỳ cũng đành ngậm ngùi thay hình đổi dáng cho phù hợp với tình trạng đất nước. Việt Nam của Thu Quỳnh cũng cùng chung số phận bi đát đau thương như thế khi cuộc chiến Nam Bắc tương tàn vừa kết thúc.
Thằng tôi lại lợi dụng mùa đông lạnh lẽo cùng với mùa đại dịch Cô Vi dai dẳng bị nằm nhà tù lỏng nên lấy sơn dầu, khung vải và cọ vẽ vung vít làm vui. Có chị bạn rất thích tranh tôi trưng lên Facebook và than ông trời bất công quá vì tài vẽ vời và viết văn vớ va vớ vẩn của tôi. Thật ra ai cũng có tài năng không ít thì nhiều mà nếu không dùng và luyện tập thì tài năng có hay chi mấy cũng bị hao mòn và mất mát. Nên tôi sáng tác hơi nhiều tranh, chất đầy trong phòng ngủ của cậu con trai đã dọn đi San Francisco làm thầy lang. Hai chúng tôi đã phải bàn nhau “xuất cảng” số lượng tranh trong nhà. Bạn bè ai biết thưởng thức nghệ thuật của mình thì cho không biếu không, khi thì trưng bán trên mạng saachiart.com và Instagram, bầy tranh bán khi mùa garage sale bắt đầu và có khi liều lĩnh dựng lều bán tại các Hội Chợ nghệ thuật địa phương để ai ngưỡng mộ tranh của mình thì khuân về nhà giùm.
Còn niềm sung sướng nào bằng khi được tiếp xúc các đàn chị đàn anh, bậc thầy cô xuất chúng. Mỗi ngày tôi được tắm gội trong biển thơ, và tưởi tẩm suối văn chương. Đọc tác phẩm nào cũng đều thấy có cái hay riêng để học hỏi, tác giả này có lối văn trong sáng, tác giả kia ý tưởng hay, tác giả nọ nội dung câu chuyện luôn hướng thiện, tác giả khác sưu tập những tài liệu bổ ích..v..v...Ngoài ra hội có nhiều trò chơi thú vị như làm thơ nối tiếp vần cuối, nạp bài về chủ đề này hay chủ đề nọ để ra sách, đóng góp câu chuyện ngắn dưới 100 chữ, hoặc mục tán gẫu đùa giỡn của 2 hội đàn bà.
Ông bà trùm Nguyện là một trong những người sáng lập ra họ đạo lẻ này. Ông bà đã bước vào lứa tuổi “bát thập cổ lai hy”, định cư ở đây từ những ngày còn chân ướt chân ráo, hoang mang lẫn vui mừng, bắt đầu cuộc sống mới, tự do trên đất nước được mệnh danh là Vùng Đất của những người Can Đảm (Land of the Braves). Ông Nguyện là một cựu hạ sĩ quan ngành truyền tin của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, vượt biển và đến Mỹ năm 1980. Bà Hồng, vợ ông, cùng 2 con vượt biển 3 năm sau đó rồi đoàn tụ với ông vào năm 1984. Nhiều người tỵ nạn Việt Nam khác cũng dần tìm về đây, họ sống yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Thấm thoát cho đến nay, khi cộng đồng người Việt tại Nam California phát triển không ngừng, người kéo đến “đất lành chim đậu” ngày càng tăng, các chị đã là những nhân viên thâm niên kỳ cựu tại đây, rành rẽ các luật welfare, an sinh xã hội, góp phần giúp cộng đồng Mỹ và cộng đồng Việt bằng những kinh nghiệm và bằng niềm yêu thích công việc. Nghe các chị kể nhiều câu chuyện, nhiều mảnh đời đó đây mà công việc đã cho cơ hội gặp gỡ, với tất cả niềm vui và hãnh diện, tôi cảm thấy đó cũng là sự thành công trong nghề nghiệp của các chị.
Chồng bà đánh cá ngoài biển, rồi theo người ta vượt biên đi mất. Một tay bà ở lại chèo chống nuôi con. Thời gian đầu không có tin tức gì của ông ấy. Gần chục năm sau mới thấy thơ về, nói ổng đã lấy vợ khác rồi. Ổng xin lỗi bà mong bà thông cảm, vì cuộc sống nơi xứ người khó khăn và bơ vơ quá. Bà kêu thằng hai viết thơ trả lời ba, rằng “Má hiểu hoàn cảnh của ba. Má không buồn đâu. Ba đừng lo, ráng giữ gìn sức khỏe“. Khi đọc những lời đó cho con, mắt bà ráo hoảnh. Nhưng buổi tối bà ngồi nhìn ngọn đèn dầu leo lét, nước mắt ở đâu mà cứ tuôn hoài.
Hôm nay tôi muốn giới thiệu đến bạn đọc một tâm tình khác, một ước mơ to lớn hơn mang tính cách cộng đồng. Hoài bão của một người bạn mà tôi tình cờ quen biết mới đây, có dịp viếng thăm khu vườn cây trái đang hình thành và một ước mơ, muốn khơi dậy tâm tình của cộng đồng người Việt rất đáng khích lệ của anh.Truyện bắt đầu từ vài năm trước, anh liên lạc và đến khu vườn của chúng tôi mua các loại cây giống như: Mận chuông, sapoche, chuối sứ...dần dần nói đến việc mò cua, bắt ốc, câu cá trong hồ, các loại cá anh thích ăn, thỉnh thoảng bắt được các loại cá này thì tôi nhắn tin anh đến lấy.Đường Colonial là trục lộ chính của Orlando, đặc biệt của người Việt. Chúng tôi đi lại trên con đường này hầu như mỗi ngày, trông thấy tấm bảng hiệu để tên Việt Plaza, lại có tượng đức Trần Hưng Đạo thật to ở ngay lối vào. Biết là của người Việt nhưng cũng không để ý lắm. Mới đây anh đến lấy cá và biếu lại một bọc trái trứng cá. Cái xe tải anh lái có dán chữ VIET PLAZA. Hỏi ra mới biết anh chính là chủ củ
Nhạc sĩ Cung Tiến