Hôm nay,  

Nhớ Tết…

28/01/202200:00:00(Xem: 3332)
hinh-tac-gia-phan
hình tác giả Phan cắt bánh VVNM 2018
 
Đã từ lâu, tôi thường lấy ngày nghỉ để ở nhà suốt từ Giáng Sinh qua năm mới, Tết Việt cũng nghỉ ở nhà, dù chẳng làm gì hay phải đi đâu? Lý do nghỉ chỉ đơn giản là đi làm hoài sẽ hết việc cho người khác. Nhưng ở nhà, ở không lại hay nhớ nhà, nhớ quê với thời tiết, không gian cuối năm thường gợi nhớ. Biết nhớ nhiều không phải là tốt, nhưng quên hết liệu có phải là quên hay cố quên tức là nhớ nhất, nhớ nhất tức là quên thật rồi. Nhớ câu thơ của Bùi tiên sinh, “Uống xong ly rượu cùng nhau/ hẹn rằng mãi mãi quên nhau muôn đời”. Câu thơ lý giải thế nào là tri kỷ, tri âm hay nhất mà tôi từng đọc được. Nhưng nhớ tri kỷ khác với nhớ nhà, nhớ Tết, nhớ quê. Người ta, ai cũng cần một nơi để về thì đó chính là nhà mình, quê mình. Ai cũng có đặc thù văn hoá của dân tộc mình thì đặc thù văn hoá của người Việt là Tết, nên nhớ Tết là cảm giác chung của người Việt xa quê chứ không riêng gì ai. Thế là nghỉ Giáng Sinh qua Tết tây năm nay tôi đã trả lời được cho mình câu hỏi từ khi đến Mỹ: “Sao mỗi độ xuân về, lòng nhớ nhà da diết hơn những tháng khác trong năm, nhớ từ thức dậy tới trong mơ mà có phải là lầu son gác tía gì cho cam, nhớ cây vú sữa chỗ bàn ăn ngoài trời, nhớ gốc mãng cầu ở đầu hàng lu nước mưa, trái to ngon ngọt như ăn những múi đường, nhưng thích hơn là những ổ kiến vàng trên cây mãng cầu, thọc trứng kiến đi câu cá rô ngoài ruộng thì không mồi câu nào nhạy hơn; nhớ vài gương mặt bạn nhỏ trong xóm lem luốc vì phá phách suốt ngày thì sao sạch sẽ được, nhớ con dế lửa, dế than, dế thầy chùa, nhớ tiếng dế đêm đông ở hải ngoại mới biết là mơ khi tỉnh dậy thật buồn. Ngồi nhớ con sông tắm suốt tuổi thơ cũng không biết nó chảy về đâu, nhớ ông già chăn vịt buồn so một mình trên chiếc xuồng ba lá những hôm mưa, những đêm khuya mùa gió chướng về, ông đốt cái đèn hột vịt bóng đỏ, treo ở đầu ghe cho máy bay trực thăng không bắn nhầm với ghe việt cộng cũng đêm đêm mò về xóm làng bắt người, cướp gạo…
 
Rồi mùa lễ cuối năm tây sẽ chóng qua với người bận tâm cả kẻ không bận lòng. Nhưng thờ ơ tới đâu thì lạnh cuối mùa phương bắc cũng tràn về phương nam vào dịp Tết Việt. Đã bao năm ăn Tết xa quê cũng không quên được Tết quê nhà. Nhớ hồi mới qua Mỹ, Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và Tết tây thì vui theo không khí lễ hội nơi này là tiệc tùng liên miên, đi mua quà cũng là cái thú khi tìm được món ưng ý mà lại vừa với túi tiền mình có. Mua quà cáp cho con cái còn nhỏ bằng những đồng tiền thưởng cuối năm làm vui hẳn lên trong lòng cha mẹ sau một năm cần mẫn đi làm không ngại gió mưa. Vui như con cái trong mùa lễ được nghỉ học, được ngủ tới mấy giờ cũng được. Những đứa trẻ sinh ra ở Mỹ nên Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và Tết tây là những ngày nghỉ học, vui chơi thoả thích và được quà nên chúng yêu thích mùa lễ cuối năm, là tiền đề của lòng yêu nước khi trưởng thành. Nhìn lại, cũng không trách được con cái người Việt sinh ở Mỹ nên có biết gì đâu về Tết truyền thống để yêu nước Việt. Chúng dửng dưng với Tết Việt khi ngoài trời tuyết đá đầy đường cũng phải dậy sớm, ăn sáng, uống sữa như người máy vì còn ngái ngủ, không muốn cũng phải đi học, không được ra xe buýt trễ giờ. Nên chúng không hiểu vì sao cha mẹ cố xin nghỉ làm vào ngày Tết Việt nam lạnh lẽo và buồn bã để làm gì ngoài hai người đi ra đi vô, nói chuyện trên trời dưới đất mà chúng chẳng hiểu được gì như cá kèo kho rau răm ngon hơn kho nước cơm, nhưng theo mẹ thì cá kèo kho nước cơm ngon hơn vì khi ăn không có hậu đắng chát của nhựa rau răm… cá kèo, rau răm, nước cơm là gì hả mẹ?
 
Nghe con hỏi cũng thấy buồn trong lòng xa quê, sâu xa hơn là nỗi buồn mất gốc. Chúng đâu biết trong lòng cha mẹ đội tuyết đi làm vào ngày mồng một Tết nó buồn xa xót cỡ nào khi nhớ tới cha mẹ già, người thân còn ở quê nhà, nhớ tới người hàng xóm tốt bụng mà mình chưa kịp trả ơn đã đi biệt xứ, nhớ từng con phố cũ thân quen, tiếng rao người bán rong não lòng những đêm mưa đèn vàng con hẻm cụt; nhớ Tết Sài Gòn, Tết dưới quê, nhớ chợ Tết ba mươi vội vội vàng vàng, người mua được miếng thịt chợ chiều đã xám xỉn cũng vui vì lâu rồi cả nhà không được ăn thịt. Người kia mua được mấy cành hoa héo chợ chiều ba mươi cũng dâng hương lên bàn thờ Phật, lên ban thờ tổ tiên tấm lòng con cháu nghèo mấy cũng không quên trời phật, ông bà. Ôi những cái Tết làm sao quên được thiếu trước hụt sau làm tóc mẹ bạc. Cha đi tù về, mẹ khổ hơn cả lúc đi thăm nuôi vì không muốn cha mới ra tù lại u buồn gia cảnh.
 
Làm sao quên được những bước chân học trò sóng sánh lối đi quen mà lạ như người say khi chưa biết uống rượu chỉ vì lần đầu được đi chùa hái lộc đầu năm với người ta, thương tới bạc đầu vì không gặp lại nên những ngày giáp Tết, ngày đầu năm không khỏi nhớ nhau, thì thầm cầu nguyện cho nhau được bình an. Những ngày cuối năm, ngày đầu năm tâm tư thường lắng đọng khi ngồi nhìn lại mình chỉ thấy bôn ba một thời tuổi trẻ nhưng mỗi năm xa mấy cũng lặn lội về nhà khi năm hết Tết đến, dù về chỉ để nhìn thấy nhà ta, để tiếp tục đi tìm sự thay đổi chứ không thể mãi như vầy khi đất nước không còn tiếng súng mới vỡ lẽ hoà bình chỉ nới rộng hố phân cách quốc cộng sâu hơn khi còn chiến tranh.
 
Rồi một thời tuổi trẻ đi qua vô tích sự, còn chăng một mớ ưu phiền mãi về sau. Còn trong ký ức những năm đầu mới đến Mỹ, những ngày giáp Tết, ngày đầu năm ngồi nhìn tuyết đá ngoài sân, đường xá vắng hoe không một bóng người, hiếm hoi có chiếc xe qua, để lại hai vệt bánh xe trên tuyết dài như nỗi nhớ quê, nhớ nhà, Nó mất hút ở một khúc quanh nhưng biết chắc là nó tiếp diễn hành trình đơn độc như người di dân.
 
Nhưng nỗi nhớ đến muốn khóc của những năm mới rời xa quê nhà, gia đình, bạn bè ấy theo thời gian nguôi bớt ở hải ngoại vì áp lực cuộc sống ngày càng cao nơi xứ sở bon chen nên chi phí luôn tăng chứ không hề giảm. Hồi mới qua chỉ cần có quần áo lành lặn, đủ ấm là được, nhưng tính đua đòi ai chả có nên quần áo cao cấp hơn làm chi phí gia tăng. Cái xe đi làm còn chạy được nhưng ai không thích xe mới nên cõng thêm món nợ xe ngày xưa bằng nửa tiền mua cái nhà để ở trong khi căn chung cư đủ sạch sẽ, yên tịnh, an ninh, giá thuê phòng vừa phải. Nhưng ở nhà riêng thoải mái hơn như bạn bè đã mua nhà nên nợ nhà, nợ xe thành chuyện lớn ở Mỹ vì mất việc làm là mất hết, nhà băng kéo hết. Cứ thế mà thành người nô lệ da vàng tự nguyện lúc nào không hay. Cho tới con cái chuẩn bị đi đại học mới hết hồn với ăn xài vô tư lự, không biết dành dụm thì tiền đâu cho con cái ăn học. Thế là đi làm thêm việc, thêm giờ tới mờ mắt thì làm gì còn thời giờ để nhớ đã bao năm xa nhà, quê cũ bây giờ ra sao, người thân, người quen ai mất ai còn…
 
Nhìn lại mình đời đã xanh rêu, nghe nhạc Trịnh hồi còn nhỏ chỉ thích giai điệu thì giờ đã thấm triết lý. Có lẽ từ đó, từ những đứa con rời mái ấm gia đình vì chuyện học hành. Tôi cũng dần quen với chiếc ghế trống trên bàn ăn là nơi thằng lớn thường ngồi; rồi tới cái ghế của thằng nhỏ lần lượt trống. Thấy lòng mình trỗng rỗng khi nhìn hai cái ghế không trống bốn năm, sáu năm, tám năm theo việc học mà những chiếc ghế trống từ khi tiễn con đi đại học tới mãi mãi về sau vì học xong đâu có đứa nào về nhà cha mẹ ăn cơm mỗi ngày nữa. Chúng có cuộc sống riêng để lập lại hành trình cha mẹ đã đi qua. Thấy nỗi buồn “từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người…” Ai rồi cũng như nhau khi nhìn lại.
 
Từ những khoảng trống trong cuộc sống như cái ghế trống do đứa con đi học xa nhà, khoảng trống nhỏ nhưng không hề nhỏ so với khi nó còn ở nhà thì chỉ việc lo ăn lo mặc cho nó là đủ thì bây giờ lo xa hơn tới những vấp ngã cho đứa con mới bước vào đời, lo xì ke ma túy rình rập những đứa trẻ mới xa nhà, lo nỗi buồn gác trọ khi hồi tưởng lại mình những năm đi trọ học. Nhớ thời rau cháo sinh viên, sáng đánh răng bằng muối, tối về thắp đèn cầy mượn quên hỏi ở nhà thờ vì không tiền mua dầu thắp đèn dầu trong hoàn cảnh cả thành phố cúp điện tháng hai lần, lần mười lăm ngày thời bao cấp vinh quang. Nhưng đến đứa con nhỏ rời nhà đi học xa thì hoang mang, lo lắng bớt đi nhiều so với đứa lớn. Ngồi tự hỏi lòng những đêm suông thấy buồn như đã phân biệt đối xử với con cái thì chợt hiểu lòng mẹ hơn khi các anh theo đơn vị đi luôn ra hải ngoại thì mẹ lo tới mất ăn mất ngủ cho những đứa con biệt xứ, không biết bao giờ về, rồi chúng có biết làm gì để sống nơi xứ lạ quê người khi đã ngoài tầm tay mẹ. Nhưng đến những đứa con nhỏ lớn lên với tương lai mù mịt thì mẹ bình tĩnh hơn khi chúng vượt biên, dù con thuyền vượt biển quá mong manh so với những chiếc tàu Hải quân to lớn của Việt Nam Cộng Hoà.
 
Tết tới ngồi nhớ mẹ thấy thương hơn khi hiểu lòng mẹ bao la hơn những tủi hờn con trẻ. Nhớ mẹ tảo tần những cuối năm để cho con áo mới đến trường, nhưng thằng con trời gầm chỉ xin giày đá banh mới để chạy được nhanh hơn mà không sợ trơn trượt. Thật hạnh phúc làm sao với tuổi ăn chưa no lo chưa tới. Nhưng mới đó tuổi nhỏ đã qua rồi, mẹ đã qua đời không thấy mặt con.
 
Những ngày giáp Tết bận rộn ở quê nhà bỗng rảnh rang ở hải ngoại hay người ta đến một lúc nào đó không còn thích đến những nơi đông người vì đã hiểu được sự ra về lẻ loi, không còn thích tiệc tùng thâu đêm suốt sáng vì biết trước kết quả vui quá hoá buồn, hậu quả không tránh khỏi của việc phung phí sức khoẻ. Nên tôi thích ở nhà một mình từ giáng sinh qua Tết tây để thanh thản nhìn lại một năm qua khi khái niệm về năm ta, năm tính theo âm lịch đã phai nhạt trong tâm khảm do đời sống phương tây chi phối mãi cũng thành quen với Tết tây tính theo tây lịch. Đừng nghĩ tới sẽ đỡ buồn hơn khi nhìn lại Tết Việt bây giờ chỉ lèo tèo chút bánh mứt, mấy cành hoa đào, hoa mai giả lẫn hoa thật ít ỏi vì thiếu người mua hoa thật ngoài khu thương mại của người Việt, nhưng hoa nào chẳng trong héo ngoài tươi khi đã xa cành như người ta thôi vui khi đã lạc mất quê hương, còn chăng nụ cười trong héo ngoài tươi khi chào hỏi đồng hương trong dịp đầu năm âm lịch nơi xứ người với câu Happy New Year quen miệng hơn câu đáng nói là Chúc anh (chị) Năm Mới Vui Vẻ.
 
Nhìn lại Tết nào vui hơn Tết ở trong lòng khi còn bâng khuâng với trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết? Tết trong lòng không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn vui hơn Tết hoài niệm của người Việt hải ngoại bây giờ đã tan tác mùi hương còn nhớ, một chút mùi vị bánh mứt Tết quê nhà trong ký ức đã cáo chung với hương liệu hoá chất hiện đại được bày bán mỗi độ xuân về nơi hải ngoại. Người kẻ chợ cứ bảo đảm với người mua là hàng Việt Nam chứ không phải hàng Trung quốc đâu mà sợ. Sao không sợ cho được mới là lạ với hàng chữ “Made in Vietnam” dám đè lên “Made in China” của người kẻ chợ. Thi thoảng được chút quà xuân từ bên nhà gởi sang thì cũng để mãi ngậm ngùi trong căn nhà tỵ nạn đến Tết năm sau.
 
Còn chăng thói quen thích ở nhà một mình những ngày đầu năm, cuối năm theo tây lịch về mặt hội nhập, theo âm lịch về mặt tập quán. Nói chung là thích ở nhà vì ngoài cửa là thế giới tiến lên đã mệt mỏi; trong nhà, trong lòng là thế giới muốn quay về nhưng không còn nhà để về, không còn mẹ trông đứa con phiêu bạt thì về với ai? Về làm khách lạ trên quê hương mình có khác gì sống tha hương đã quen. Thế là chẳng biết đi đâu, về đâu cho hết quãng đời thừa nên ở nhà cho nó lành.
 
 
Nhớ Tết là quên lớn nhất trong lòng vì cố quên càng nhớ. Cứ theo tuần hoàn vũ trụ là hạt bụi nghiêng mình nhớ cố hương dù đã bay nghìn trùng xa cách. Chỉ có sự tĩnh lặng trong bốn bức tường câm là tử tế với tâm trạng phân thân trong những ngày cuối năm, những ngày đầu năm. Hết thắc mắc sao khi xưa Thâm Tâm lại viết “tống biệt hành” khắc khoải đến đau lòng, “mẹ thà coi như chiếc lá bay/ chị thà coi như là hạt bụi/ em thà coi như hơi rượu say…”
 
Sáng nay yên tĩnh quá, nắng vàng phai trên đồng cỏ khô chưa ráo sương đêm đã mây về, gió bấc thổi lay cành khô còn gì để rụng, mưa sẽ rơi nhiều hạt lạnh cóng tay. Nhưng lòng vẫn nôn nao đón Chúa hài đồng, Chúa giánh sinh đêm nay. Những phiền muộn của thế gian sẽ được ngài cứu rỗi, bốn bức tường câm lại rộn tiếng đi về, khúc nhạc xuân văng vẳng trong hồn từ độ xa quê lại vang lên nơi xóm làng xưa cũ, “đầu xuân nâng chén ta chúc nơi nơi…”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 537,262
Mấy nay công việc trong hãng chậm quá, đơn hàng hổng có, mọi người tụm năm tụm ba nói dóc, bàn tán cả ngày. Mỗi nhóm có đề tài khác nhau. Nhóm đen tụi thằng Kieth, thằng Eddie, thằng Aaron… thì lúc nào cũng chuyện cá độ bóng chày, bóng rổ, bóng cà na, chuyện cầu thủ này chơi đẹp, cầu thủ kia xuất sắc, chuyện thằng Willi tát xướng ngôn viên trên thảm đỏ giải Oscar… Nhóm gốc mít như anh Tuấn, thằng Khôi thì toàn chuyện Việt kiều về nước ăn chơi, chuyện ông này bà nọ ăn bẩn...Nhóm thằng Andre, Jose… thì tám chuyện Mễ Tây Cơ. Nhóm đàn bà thì hổng biết nói chuyện chi nhưng chưa bao giờ thấy miệng nghỉ ngơi, kể cả lúc ăn uống, tám liên tu bất tận.
Dưới ánh nắng chiều chói chang, nhìn những quân nhân huấn luyện oai vệ với tác phong nghiêm chỉnh, các nam nữ tân binh mạnh mẽ, nhanh lẹ trong quân phục của người lính, ba-lô nặng trĩu trên vai đi đứng thao tác gọn gàng ngoài sân trường, các cô cậu học sinh thích thú xầm xì to nhỏ với người thân. Đi ngang cổng chính chúng tôi thấy câu phương châm của trường được ghi đậm trên cao “ We will not lie, steal, or cheat, nor tolerate among us anyone who does ” như một huấn từ của khóa sinh. Kế tiếp, chúng tôi được đưa tới sân cờ nơi có một bức tường đá đen dài gần ba thước hơi uốn cong có ghi tên các sĩ quan tử trận trong chiến tranh với dòng chữ được khắc như sau “ In Memory Of Our Fellow Graduates Who Have Fallen in Battle.” để mặc niệm!
Viết những dòng tâm can này vào ngày Nguyễn Văn Kỷ Ngọc Thuyền - bé Bi con tôi tròn 46 tuổi, trái tim thương tật của người cha Mai Quan Vinh chỉ khát khao duy nhất một điều, lần cuối trong đời cha được ôm chặt bé Bi vào lòng nghe con khẽ gọi hai tiếng “Cha ơi!…”
Quốc Kỳ của một quốc gia dĩ nhiên luôn luôn phải được tôn kính, yêu mến và trân trọng từ người dân của đất nước đó, bởi mỗi một đất nước vĩnh viễn chỉ có một Tổ Quốc và một Màu Cờ, nhưng bất hạnh thay lịch sử đã ghi lại biết bao nhiêu quốc gia sau cơn binh biến, hay sau những cuộc chiến tàn khốc, đất nước đã phải thay tên đổi họ, và lá quốc kỳ cũng đành ngậm ngùi thay hình đổi dáng cho phù hợp với tình trạng đất nước. Việt Nam của Thu Quỳnh cũng cùng chung số phận bi đát đau thương như thế khi cuộc chiến Nam Bắc tương tàn vừa kết thúc.
Thằng tôi lại lợi dụng mùa đông lạnh lẽo cùng với mùa đại dịch Cô Vi dai dẳng bị nằm nhà tù lỏng nên lấy sơn dầu, khung vải và cọ vẽ vung vít làm vui. Có chị bạn rất thích tranh tôi trưng lên Facebook và than ông trời bất công quá vì tài vẽ vời và viết văn vớ va vớ vẩn của tôi. Thật ra ai cũng có tài năng không ít thì nhiều mà nếu không dùng và luyện tập thì tài năng có hay chi mấy cũng bị hao mòn và mất mát. Nên tôi sáng tác hơi nhiều tranh, chất đầy trong phòng ngủ của cậu con trai đã dọn đi San Francisco làm thầy lang. Hai chúng tôi đã phải bàn nhau “xuất cảng” số lượng tranh trong nhà. Bạn bè ai biết thưởng thức nghệ thuật của mình thì cho không biếu không, khi thì trưng bán trên mạng saachiart.com và Instagram, bầy tranh bán khi mùa garage sale bắt đầu và có khi liều lĩnh dựng lều bán tại các Hội Chợ nghệ thuật địa phương để ai ngưỡng mộ tranh của mình thì khuân về nhà giùm.
Còn niềm sung sướng nào bằng khi được tiếp xúc các đàn chị đàn anh, bậc thầy cô xuất chúng. Mỗi ngày tôi được tắm gội trong biển thơ, và tưởi tẩm suối văn chương. Đọc tác phẩm nào cũng đều thấy có cái hay riêng để học hỏi, tác giả này có lối văn trong sáng, tác giả kia ý tưởng hay, tác giả nọ nội dung câu chuyện luôn hướng thiện, tác giả khác sưu tập những tài liệu bổ ích..v..v...Ngoài ra hội có nhiều trò chơi thú vị như làm thơ nối tiếp vần cuối, nạp bài về chủ đề này hay chủ đề nọ để ra sách, đóng góp câu chuyện ngắn dưới 100 chữ, hoặc mục tán gẫu đùa giỡn của 2 hội đàn bà.
Ông bà trùm Nguyện là một trong những người sáng lập ra họ đạo lẻ này. Ông bà đã bước vào lứa tuổi “bát thập cổ lai hy”, định cư ở đây từ những ngày còn chân ướt chân ráo, hoang mang lẫn vui mừng, bắt đầu cuộc sống mới, tự do trên đất nước được mệnh danh là Vùng Đất của những người Can Đảm (Land of the Braves). Ông Nguyện là một cựu hạ sĩ quan ngành truyền tin của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, vượt biển và đến Mỹ năm 1980. Bà Hồng, vợ ông, cùng 2 con vượt biển 3 năm sau đó rồi đoàn tụ với ông vào năm 1984. Nhiều người tỵ nạn Việt Nam khác cũng dần tìm về đây, họ sống yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Thấm thoát cho đến nay, khi cộng đồng người Việt tại Nam California phát triển không ngừng, người kéo đến “đất lành chim đậu” ngày càng tăng, các chị đã là những nhân viên thâm niên kỳ cựu tại đây, rành rẽ các luật welfare, an sinh xã hội, góp phần giúp cộng đồng Mỹ và cộng đồng Việt bằng những kinh nghiệm và bằng niềm yêu thích công việc. Nghe các chị kể nhiều câu chuyện, nhiều mảnh đời đó đây mà công việc đã cho cơ hội gặp gỡ, với tất cả niềm vui và hãnh diện, tôi cảm thấy đó cũng là sự thành công trong nghề nghiệp của các chị.
Chồng bà đánh cá ngoài biển, rồi theo người ta vượt biên đi mất. Một tay bà ở lại chèo chống nuôi con. Thời gian đầu không có tin tức gì của ông ấy. Gần chục năm sau mới thấy thơ về, nói ổng đã lấy vợ khác rồi. Ổng xin lỗi bà mong bà thông cảm, vì cuộc sống nơi xứ người khó khăn và bơ vơ quá. Bà kêu thằng hai viết thơ trả lời ba, rằng “Má hiểu hoàn cảnh của ba. Má không buồn đâu. Ba đừng lo, ráng giữ gìn sức khỏe“. Khi đọc những lời đó cho con, mắt bà ráo hoảnh. Nhưng buổi tối bà ngồi nhìn ngọn đèn dầu leo lét, nước mắt ở đâu mà cứ tuôn hoài.
Hôm nay tôi muốn giới thiệu đến bạn đọc một tâm tình khác, một ước mơ to lớn hơn mang tính cách cộng đồng. Hoài bão của một người bạn mà tôi tình cờ quen biết mới đây, có dịp viếng thăm khu vườn cây trái đang hình thành và một ước mơ, muốn khơi dậy tâm tình của cộng đồng người Việt rất đáng khích lệ của anh.Truyện bắt đầu từ vài năm trước, anh liên lạc và đến khu vườn của chúng tôi mua các loại cây giống như: Mận chuông, sapoche, chuối sứ...dần dần nói đến việc mò cua, bắt ốc, câu cá trong hồ, các loại cá anh thích ăn, thỉnh thoảng bắt được các loại cá này thì tôi nhắn tin anh đến lấy.Đường Colonial là trục lộ chính của Orlando, đặc biệt của người Việt. Chúng tôi đi lại trên con đường này hầu như mỗi ngày, trông thấy tấm bảng hiệu để tên Việt Plaza, lại có tượng đức Trần Hưng Đạo thật to ở ngay lối vào. Biết là của người Việt nhưng cũng không để ý lắm. Mới đây anh đến lấy cá và biếu lại một bọc trái trứng cá. Cái xe tải anh lái có dán chữ VIET PLAZA. Hỏi ra mới biết anh chính là chủ củ
Nhạc sĩ Cung Tiến