Hôm nay,  

cổ tích trên sông…

04/02/202200:00:00(Xem: 2942)
Tranh-minh-họa_Cao-Bá-Minh
hình minh họa - tranh Cao Bá Minh
 
Mỗi năm tết đến, không riêng thời tiết, không gian đầy hoài niệm vì sắp thêm một năm nữa đi qua, lòng người cũng bâng khuâng trước tương lai năm mới sắp đến, luyến tiếc mất còn trong năm cũ sắp hết và đặc biệt là không bao giờ trở lại. Rồi năm mới đến sẽ ra sao với tuổi đời ngày càng chồng chất những lo toan, muộn phiền. Thế là hoài niệm cứ tuôn chảy, nhìn về tương lai như bầu trời xám bên ngoài khung cửa. Còn chăng những vui buồn đã qua, những buồn vui không mong sẽ đến.
  
Nhớ khi còn nhỏ thì đến hè cũng có cảm giác tương tự như tết khi kết thúc năm học, nhưng sau vài tháng hè sẽ là năm học mới, gặp lại bạn bè là quên hết ưu tư về sự chia tay nào cũng buồn, nhưng chia tay bạn bè mấy tháng sẽ gặp lại, khác với sự chia tay năm cũ vì thời gian đi qua sẽ không trở lại. Hiểu được như thế là tuổi vô tư lặng lẽ hết để tuổi biết buồn về, văng vẳng bên nhà hàng xóm có tiếng hát bay sang, “trời sắp tết hay lòng mình đang tết…” Ở mỗi độ tuổi có cảm nhận khác nhau, tuổi thơ chỉ biết vui được nghỉ học, về quê ăn tết với thịt cá, bánh trái ê hề, được uống nước xá xị hiệu con nai thả cửa là vui nhất tuổi thơ, và vui ngất ngây hơn là tắm sông, bắt dế đã đời. Đến tuổi biết rung động trước ai đó thì trời vẫn sắp tết nhưng lòng mình có đang tết hay không đã là chuyện khác rồi, tùy vào quan hệ trong năm cũ sắp hết đã tốt đẹp hơn, thân thiết hơn hay ngược lại.
  
Rồi tuổi đã có gia đình. Sau một năm làm ăn khấm khá, gia đạo bình yên, những ngày giáp tết cũng có tết ở trong lòng là cảm giác mãn nguyện. Và ngược lại là những năm làm ăn thua lỗ, tới tết phải xoay sở đầu này lấp đầu kia cho tạm ổn qua năm tính tiếp. Đến những cái tết xa quê thật hụt hẫng, từ nơi xa tới mất phương hướng trong cuộc sống xứ người, khó định hướng quê nhà ở phương nào vì khoảng cách quá xa thì tết vẫn đến. Trời sắp tết vẫn mang mang những vui buồn lẫn lộn, lòng đang tết vẫn hoài nghi chính mình là tự an ủi hơn là được vui. Nhưng đến một lúc nào đó, người ta đi qua quá nhiều những cái tết vui buồn lẫn lộn mới biết cái tết nào là tết ở trong lòng. Tết ở trong lòng vượt khỏi cảm xúc vui hay buồn với thực tại vì nó thực sự là tết. Đời người dường như có được một cái tết ở trong lòng là đủ vì cái tết ấy ngoài ý nghĩa cội nguồn, nhắc mình là ai, đang sống thế nào, nơi đâu. Dù đang vui hay buồn thì cái tết ấy vẫn ở trong lòng với niềm hoan hỉ nhất, khác với những cái tết thành công hay thất bại trên đường đời, được qúy mến hơn hay ra rìa trong tình cảm con người luôn không ổn định.
  
Có một chiều giáp tết khi sắp ra trường, tôi ngồi ở quán cà phê vườn dưới dạ cầu Ông lớn, vạt nắng cuối ngày hắt xuống ngã ba sông màu vàng sa di, cái máy cassette cũ trong quán đang chạy những cuộc băng cũ (nhão) nên tiếng hát càng thê lương với những xuân khúc thường nghe trước ‘75. Tôi ngồi nhìn lục bình trôi vô ưu, lòng tự hỏi giề lục bình kia có buồn khi nó được sinh ra tức là tách ra từ một giề lục bình lớn hơn bởi gió mưa, vì từ đó nó sống đời nước chảy hoa trôi. Giề lục bình nhỏ nhoi bắt đầu một phận đời lênh đênh trên giòng vô định. Chắc chắn có lúc nào đó trong đời nó đã mạnh mẽ lên, xanh um, rồi ra hoa màu tím để làm đẹp cho đời. Nên tôi buồn cho sự kết thúc của nó vào một chiều giáp tết; giề lục bình xác xơ, lặng lẽ, âm thầm chìm xuống đáy sông sâu, nơi nó không hề biết trước trong định mệnh của vạn vật. Tôi cũng sắp hết phải đi học, qua tết tới hè là ra trường. Đi nhận nhiệm sở ở đâu cũng chưa biết, mà cũng chẳng cần biết như giề lục bình không biết nơi nó được sinh ra và nơi nó vừa từ giã cõi đời là đâu, ai là người đưa tiễn nó? Đó là cái tết ở trong lòng tôi đã nhiều năm. Ăn tết với giề lục bình.
  
Đến một chiều cổ tích trên sông. Khi cô giáo có phần chơi thân với tôi trong khu tập thể giáo viên mà tôi đang sống. Cô chắt chiu, hà tiện những đồng lương ít ỏi từ bao giờ để có thể mua được từ nhà học trò chục trứng vịt, mấy kí nếp, con gà sống… Phụ huynh học sinh thường nửa bán nửa biếu cho thầy cô về ăn tết nên giá rẻ lại được ngon hơn mua chợ. Rồi niềm vui háo hức trong mắt lệ cho người là tôi từ chối không cùng về Sài gòn với cô. Nghĩa là tết không gặp. Tôi ở lại trường.
  
Chiều ba mươi tết yên vắng trong khu tập thể vốn đầy ắp tiếng cười của thầy cô giáo trẻ càng tịch liêu. Tôi nghĩ đến những người lính ngày xưa không về nhà ăn tết, chắc họ buồn lắm! “Con biết xuân này mẹ chờ tin con… ; đàn trẻ thơ ngây ngồi chờ mong anh trai sẽ đem về cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe xóm làng…” Sao hoà bình rồi, những lớp trẻ lớn lên vẫn mịt mù tương lai như khói lửa thời chiến tranh. Các anh tôi không còn là những người lính xa nhà mà họ đã thành những kẻ chiến bại, đang biệt xứ hay tù đày không biết đến bao giờ.
  
Một chiều giáp tết cô độc mà tôi thường hoài niệm là chiều cổ tích trên sông. Khi không còn chịu nổi sự cô đơn trong khu tập thể chỉ còn lại một mình. Khi nhìn kia là ngọn đèn bình ắc-quy với bộ bài mà chúng tôi thường ngồi chặt hẻo đợi đò vì mỗi ngày chỉ có một chuyến đò về thành phố sẽ cặp cầu gỗ rước khách lúc hai giờ đêm. Đứa nào ngủ quên thì khỏi về nhà nên anh em cứ thường ngồi chơi bài tới hai giờ sáng để ra đò.
  
Tôi bước sang phòng nữ để xem lại cửa nẻo cho các cô giáo trước khi tôi đi bụi tới sáng trong xóm dân cho đỡ buồn. Cái nón cũ của cô Nhiên trên tường còn lan tỏa linh hồn thiếu nữ đã chết vì vượt biển. Nhưng những cô giáo chung phòng nữ chỉ biết thương con Nhiên bỏ nhiệm sở, nên treo cái nón cái bang của Sếu-Nhiên để nhớ cây cười có hạng với những chuyện nói nhỏ cười to… Vài thầy giáo biết cô Nhiên đã qua đời nhưng không ai nói ra vì sợ các cô bên phòng nữ sợ ma, đem đốt cái nón với mùng mềm của cô Nhiên thì quá tội cho một vong linh còn chưa kịp hiểu vì sao tôi phải chết mà đã chết?
  
Tôi đi khi hoàng hôn đã đỏ ối trên sông Soài. Nỗi bâng khuâng nhỏ nhoi trong lòng, trong khu tập thể chật hẹp đã có không gian thoáng rộng ngoài bến sông nên lòng thấy nhẹ nhõm hơn. Xa xa, chiếc ghe có mui ngoài sông lớn đang chơi vơi năm hết tết đến. Nó chỉ còn là hình bóng của chiếc thuyền con trên sông trôi. Một chiếc bóng nghĩa đen khi không nhận dạng được người chèo trong chiều chạng vạng; và một chiếc bóng theo nghĩa lẻ loi đang bơi trên dòng nước ngược, dòng cơm áo nhọc phiền…
  
Người chèo ghe phất khăn rằng chào tôi, nên tôi khoát tay chào lại vì có thét lớn cách mấy thì gió sông Soài cũng không nghe được, nhưng chiếc ghe quay mũi vô bờ nên tôi dừng lại đợi. Trong chạng vạng sông nước hữu tình, dáng người phụ nữ chèo ghe in lên nền trời tuyệt phẩm của tạo hoá thật đẹp. Đó là chị Mười, người phụ nữ cao, gầy, cỡ ba mươi tuổi. Làn da ngăm của chị mê hoặc, sự rắn chắc của cơ thể do chèo ghe quanh năm từ mở mắt tới đi ngủ. Đôi mắt sâu thăm thẳm nỗi niềm của chị như thôi miên. Chị thường mặc quần đen, áo bà ba đen, trên cổ lúc nào cũng có cái khăn ca-rô trắng đen, khi lạnh thì quấn lên đầu như người đi tế thần linh.
  
Tôi quen biết chị, đã gặp vài lần, ăn cơm chung với chị cũng đôi lần ở nhà một học trò mà mẹ của em ấy như người bạn thân của chị Mười, nên chị thường ghé ăn cơm khi ngang qua nhà bạn. Tôi không nói chuyện nhiều với chị nhưng giữa tôi với chị có sự thầm hiểu nào đó, mà lắm lúc tôi tin là sự che giấu thân phận có tài tình cách mấy thì cũng có lúc sơ hở bộc lộ bản thân.
  

Nhưng những bữa cơm ấy cũng chỉ qua loa chuyện thường ngày trong lúc ăn. Chuyện đàn bà còn lại sau bữa cơm của chị với mẹ đứa học trò thường ở dưới bếp; tôi với cha đứa học trò thường lên nhà trên uống trà, hay uống cho hết chai rượu đã mua.
  
Đây là lần đầu tiên tôi gặp riêng chị,
  
Khi chiếc ghe đã vào bờ, chị cười tươi như bậu mới về, “Thầy có nhìn ra tui không? Tui ngoài sông nhìn vô cũng biết là thầy…”
  
“Tôi nhìn ra sông chỉ thấy chiếc ghe, chứ làm sao biết ai đang chèo. Sao chị nhìn hay vậy?”
  
“Thầy coi. Ở đây đàn ông có mình thầy tóc dài. Nhìn là biết liền hà…”
  
“Thì ra… Chị đang về nhà hả, kịp đón giao thừa không”
  
Bỗng gương mặt chị tối sầm xuống như trời chuyển mưa. Bao vui tươi, hớn hở, biến đi nhanh như gió sông Soài. Đôi mắt người phụ nữ Miên cũng xài ngôn ngữ chung của phụ nữ là dễ rươm rướm. Chị nói nghẹn ngào, “Phải như tui có nhà… để về.”
  
Đúng là chiều giáp tết, chữ “về” đè nặng tâm tư mọi người. Vậy chữ “ở” có chia sẻ được chơi vơi trong lòng người thương hồ đơn thân độc mộc. Sự chơi vơi trong lòng tôi, không cách gì đến được nơi muốn đến vì cũng không biết được là mình muốn đến đâu trong cảnh tù túng của ý thức, nghèo túng của đời sống đến không đủ tiền tàu xe để về nhà. Biết là vay mượn không khó, nhưng sống đời vay mượn đến bao giờ?
  
Tôi bước xuống ghe không suy nghĩ, đạp cành mắm đẩy mũi ghe ra…
  
“Chèo đi chị Mười.”
  
“Thầy muốn đi đâu?”
  
“…cùng trời cuối đất.”
  
“Sao thầy không về nhà ăn tết?”
  
“…”
 
  “…Chị dạy tôi chèo đi. Tôi chèo chị đi chơi cho đỡ buồn. Đi đâu cũng được vì tôi đã nghỉ dạy tới qua tết nhưng không muốn về nhà. Không ai bắt tôi ở lại trường, và tôi cũng không biết đi đâu nữa…”
  
Chị không nói gì thêm. Không dạy tôi chèo. Chỉ cho ghe ra chừng gần giữa dòng thì xổ buồm - là miếng bao cát bằng ny-lon của lính ngày xưa, tấm buồm vá chằng vá đụp hình tam giác có khung tre, căng trên cây tre như cây nêu vừa được dựng lên để hai kẻ cô đơn cùng ăn tết. Tôi nghĩ vậy trong im lặng, chắc chị cũng hiểu vậy trong linh tính nên chị cũng im lặng, dõi mắt về quá khứ thì phải. Phía chân trời đỏ bầm của ngày tàn, có một gia đình hoàng tộc bên Cao Miên, bị Pôn-pốt chặt đầu thả sông không chừa một mạng. Nhưng xảy đứa bé gái còn vương nợ trần nên từ đó điêu linh. Giai nhân phiêu bạt chiều giáp tết đang ngóng về cố thổ trong bộ dạng thương hồ làm mặt trời đỏ ối trên sông cũng hổ thẹn mà trốn biệt! Sự che giấu thân phận của chị nhưng cốt cách hoàng tộc vẫn nhìn ra được trong bộ dạng thường dân của nàng công chúa không chừng, vì tôi thấy trên ghe có bàn chải đánh răng với cây kem ngoại quốc chứ không phải hàng “nhu yếu phẩm” của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Trong cái xứ sáng ra chỉ thấy người súc miệng bằng nước lu đã là văn minh, thầy giáo, cô giáo thì đánh răng bằng muối bọt là chuyện thường ngày ở huyện. Ngoài ra, trong giao tiếp ít ỏi của chị với người trên bờ là gia đình đứa học trò. Tôi có lần thấy chị thiếu từ Việt để diễn tả nên chị đã dùng tiếng Pháp lẩm bẩm trong miệng để truy ra tiếng Việt như tra tự điển. Làm cho tôi tin tâm sự của chị đã kể với mẹ của đứa học trò mà có lần bà đã kể lại cho tôi nghe trong sự bí mật chỉ để giải thích việc bà thương chị Mười như chị em ruột của bà vì bà cũng lâm vào hoạn nạn tương tự như chị hồi 30 tháng 04 năm 1975… Chị Mười thì bị pôn-pốt truy sát khi người ở, bà vú của gia đình chị không che giấu cho chị được nữa nên buộc chị phải trốn sang Việt nam, sống nghề thương hồ là chọn lựa thích hợp nhất cho người muốn lánh mặt.
   …
  
Trời nổi giông lên, mây đen kéo về rền tiếng sét. Những hạt mưa đã lắc rắc trên mui ghe, cũng bằng khung tre, căng ny-lon bao cát của lính ngày xưa. Chị hối hả cho ghe vô bờ, “Thôi thầy lên bờ, về nhà nghỉ nha. Dưới ghe lạnh lắm. Mà mui ghe cũng bị dột nữa…”
  
Ngần ấy tả tơi giáng lên thân người cô độc nên tôi không lên bờ. Chị neo ghe tạm dưới dạ cầu Cá sấu một hồi cũng không xong vì ván lót cầu mục gãy đã nhiều, mưa trút không thương. Gió vi vu buốt cuộc đời buồn lại thêm tiếng mưa về đêm oai oán, hay những linh hồn chưa chịu ngủ yên bên bờ lau sậy này đang đón giao thừa. Tôi nói chị Mười lủi ghe vô đám dừa nước gần đó, coi như đậu ghe trong căn nhà lá rồi còn gì?
  
Chị khen tôi thông minh nên chị cũng vâng lời như một học sinh ngoan. Quả thật chiếc ghe núp dưới vòm lá dừa dầy đặc nên chuyện mui ghe bị dột không làm khó nữa. Chỉ còn hai cái bao tử kêu chiều chưa có gì bỏ bụng trên chiếc ghe là ghe thương hồ. Nào là khoai lang, bí đỏ, dừa khô, cá mắm, cá khô, bắp chuối, chuối nải, chuối khô… không biết có bao nhiêu thứ trên ghe.
  
Không ngờ chị cũng đang đợi tôi mở lời để chị bớt ngại đãi tôi một bữa ăn trên ghe thương hồ. Mà tôi thì có cái tự nhiên của tuổi trẻ,
  
“Chị Mười ơi! Trên ghe có gì ăn được không? Tôi đói bụng quá rồi!”
  
“Nếu thầy không ngại. Thì tui nấu cơm cho thầy ăn?”

   “Nấu đi. Sao nãy giờ không nấu! Tôi thích nấu ăn trên ghe lắm. Lần, con Lan, thằng Đức, thằng Tâm, con Hạnh… học trò, tụi nó nấu cháo cá kèo với nước dừa trên ghe cho tôi ăn. Tôi nhớ hoài vì ngon lạ lùng…”

   “Thầy nói thiệt hả? Vậy mà nãy giờ tui ngại nên không dám mời thầy ăn cơm.”

   Thật khó quên được sự xoay trở tài tình của chị Mười trên chiếc ghe thương hồ cũ kỹ, nhỏ nhoi. Loáng một lát chị đã nấu được nồi canh chua xịa với bạc hà, cà chua, me trái, ớt trái, giá,… Con xịa là một loại nghêu biển giống con nghêu trắng nhưng to hơn, vỏ nó nâu, ruột nó đen hơn, nhìn không đẹp mắt bằng nhưng ăn ngon ngọt hơn nghêu trắng. Cơm thì nồi cơm nguội có sẵn. Chừng ăn hết nồi cơm này mới nấu nồi cơm khác chứ không nấu theo từng bữa như ở trên đất, ở nhà. Chị luộc hột vịt lộn, chiên khô lóc để uống rượu lậu. Loại rượu đế lạnh vì chị cột đến mấy bình dưới lườn ghe. Khi bị công an chặn bắt rượu cấm thì chỉ tháo mối dây dù chỗ cột chèo là mấy bình rượu vô chủ dưới sông. Bọn công an biết mánh khoé của dân thương hồ nhưng làm lơ để chúng vớt sau khi cho người chủ ghe bị khám xét được đi.

   Bây giờ thì chị kéo lên mấy bình nướt mắt quê hương, tháo một bình, đưa lên ghe đãi ông thầy chưa dạy chị một chữ mà thọ giáo hơi nhiều về cách nấu ăn trên ghe của chị. Chiếc ghe tròng trành do quá nhỏ bé với hai người và hàng hoá linh tinh. Dọn được chỗ ăn cơm đã mừng. Ánh đèn dầu lung linh chị đẹp não nùng như mưa chiều kỷ niệm.

   Ngồi nhậu sau khi ăn cơm nên tắt đèn dầu để tiết kiệm. Ngọn đèn bão lu lu, khi tỏ khi mờ theo những lọn gió tọc mạch. Lần đầu tiên tôi được ăn con xịa trong nồi canh chua dư vị một đời. Cũng là lần đầu uống rượu đế bằng cái vỏ trứng hột vịt lộn. Thì ra sao chị nói lạ, “Thầy ăn hết một cái trứng trước đi để lấy ly uống rượu!”

    Mưa ngọt ngoài trời cho lòng tôi ấm mãi trong chiếc thuyền không bến. Nên suốt phần đời còn lại từ đó về sau cứ nhớ tiếng còi tàu lúc hai giờ sáng. Chị Mười đánh thức tôi, đưa tôi ra bến đò, dúi vào tay tôi cuộn tiền thương hồ cơ cực của chị, “thầy cầm chút, tấm lòng của tui gởi thầy mà đi đò, xe về nhà. Dù lòng thầy không muốn ăn tết thì cũng phải về nhà…”

   Tôi nắm bàn tay chai xạm vì chèo ghe của chị, lời cảm ơn không nói ra được nên nghẹn ngào quay đi. Hơi ấm của cái mền rách bươm nặng mùi tóc chị còn mãi trong tâm khảm theo dòng đời trôi mênh mang nên trời giáp tết lại nhớ đến cái tết ở trong lòng đã bao năm không về lại bến sông xưa.
 

Ý kiến bạn đọc
09/02/202221:45:19
Khách
Viết truyện / tùy bút như vầy là đạt đạo! Kính cảm ơn tác giả.
07/02/202210:42:35
Khách
Đọc được câu chuyện ngắn (tuỳ bút) thật cảm động và buồn, không rõ tên tác giả, nhưng thấy tên của họa sĩ Cao Bá Minh, người đã cùng làm việc chung với tôi ở SĐ1 KQ ở Đà Nẵng trước năm 1975. Tôi rất muốn được liên lạc lại với CBM. Xin quí vị giúp tôi nếu không có gì trở ngại. Xin cám ơn trước. Hiện tại tôi đang sống ở Úc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 537,325
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Ngồi một mình trong căn phòng vắng, mọi người đang vui chơi ở đâu đó cuối tuần để lại cho tôi một cơ hội, một dịp mà tôi thích lắm, thích nhất từ ngày đặt chân đến đất Mỹ, đó là một không gian riêng tư cho mình Những ngày bơ vơ lạc loài bước chân ngỡ ngàng đến Mỹ. Ngày đó ai cũng như nhau là cùng sống chen chút nhau thật đông trong những căn nhà mướn, căn phòng quá tải… nhưng thôi điều đó không thật sự làm buồn phiền tôi, nhưng tôi chỉ ao ước cho tôi một khoảng không gian, thời gian yên tĩnh cho tôi quá khó , không hề có...
Vắt qua dòng sông có đến mười mấy cây cầu, những cây cầu bằng sắt thép, kiểu cách như cầu Bình Lợi, Bình Triệu vậy… Những cây cầu có tuổi đời năm mươi năm, một trăm năm nhưng vẫn tiếp tục trách vụ kết nối đôi bờ. Có những cây cầu quay, mở ra để cho tàu thuyền qua lại, ngày nay nó đã không còn được sử dụng nữa. Nó được kéo cao lên và giữ nguyên như thế để làm di tích lịch sử. Những cây cầu mở ngày xưa giờ trở thành nhân chứng cho một thời vàng son chưa xa lắm.
Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt. Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà. Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách. Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ. Tôi lải nhải nhắc Ba: Không có việc gì khó, chỉ sợ mình… không trồng!
Ông Chương thức dậy thật sớm sau một đêm khó ngủ trằn trọc, dù ông đã nghe mấy bài phật pháp do thầy Pháp Hòa giảng để dỗ giấc ngủ. Bên ngoài cây cỏ còn ngái ngủ dưới lớp sương dày đặc, chưa thấy mặt trời lên. Ông rón rén đi pha cà phê thật nhẹ nhàng, cố gắng không gây tiếng động làm mất giấc ngủ cả nhà...Tách cà phê thơm phức nóng hổi gây cho ông cảm giác dễ chịu. Ông lặng yên như đang lật trang đời từ ngày qua định cư nước Mỹ …Nhớ ngày miền Nam bị mất, ông đi tù 5 năm trở về, lúc ấy ông chỉ mới ngoài 30 tuổi, người yêu đã sang ngang, cùng lúc mất tất cả. Ông chán chường cuộc sống chẳng thiết gì nữa, nhưng mấy năm sau duyên nợ đến cho ông gặp được cô giáo dạy mầm non tên Dung, không chê ông nghèo tối ngày đi “dọc đường gió bụi”. Hai người nên duyên và hơn năm sau cháu Việt ra đời, đến cháu Nga, cháu Nguyệt, và con trai út là cháu Quân. Gia đình ông ở ké nhà mẹ vợ, ông làm đủ thứ nghề ai kêu gì chạy đó, sau có được chiếc xe đạp thồ đón khách.
Sáng thứ Bảy cuối tháng 5 trời trở lạnh với mây mù và vài thoáng mưa phùn. Tự nhiên tôi chạnh lòng nhớ đến đàn chị Nguyễn Tinh Châu. Mai là ngày giỗ 3 năm của Chị. Thời gian qua thật nhanh. Sự ra đi của Chị quả là một mất mát lớn cho Hội YKH chúng ta, không những vì Chị là một trong những hội viên kỳ cựu, mà vì những hoạt động xã hội đắc lực của chị trong kêu gọi và thành lập quỹ cứu trợ nạn nhân cho nhiều thiên tai tại Mỹ, Nhật (Tsunami, 2011), Phi Luật Tân (Typhon Haiyan, 2013) và ngay cả Việt Nam (Bão Xangsane, 2006)…Và nhất là quỹ tương trợ hàng năm nhằm giúp đỡ các Thương Phế Binh sống cùng cực tại quê nhà. Con số đóng góp luân chuyển từ 8 ngàn đô cho đến 10 ngàn đô nói lên được sự nhiệt tình của Chị và của anh chị em chúng ta cho một mục đích chung, đúng, xứng đáng, nhân nghĩa và truyền thống.
Hồi đó, trong những kỹ sư mới ra trường về làm cho Bưu Điện, anh là một người tôi không ưa nhất, và có lẽ tôi cũng là người anh ghét nhất. Anh đẹp trai, con nhà giàu, mỗi cái tội mặt kênh kênh và cái giọng Huế. Cái giọng nói nặng trịch, oang oang sao mà khó ưa. Không những tôi mà cả mấy đứa bạn cùng cơ quan mỗi khi thấy anh đi ngang là che miệng cười nhái: đi mô rứa tề. Tôi ghét nhất là có lần anh lái xế hộp chở mấy ông bạn đi uống cafe, thấy tôi đi ngang mấy người bạn bảo dừng xe rủ tôi đi cùng, anh nói kệ nó, cái con nhỏ phách lối. Sau này thân nhau rồi, có lần tôi hỏi tại sao anh làm vậy, anh trả lời, “Lúc nào cũng thấy mấy thằng bạn cùng lớp xoay quanh em, mà mặt em cứ tỉnh bơ như thể ta là cái rốn vũ trụ, nhìn xốn mắt!”
Bà tiếp tục: Gia đình chúng tôi vượt biên theo diện “bán chánh thức” do nhà nước tổ chức. Mỗi đầu người phải đóng đủ 15 “cây” vàng. Gia đình gồm 10 người đúng ra phải đóng 150 cây nhưng đứa gái út lúc đó mới có 10 tuổi (giờ đây đã là bác sĩ sản khoa nổi tiếng ở thành phố này) nên nhà nước “ nhân đạo” cho đóng nửa suất là 7 cây rưỡi. Vậy là gia đình đóng tổng cộng 145 cây rưỡi để được ra khơi, còn có thoát được hay không thì không ai chịu trách nhiệm. Con tàu có sức chứa 180 người nhưng người ta đã thu vàng và cho lên tàu đến 240!” “Bước đầu mới đến Mỹ cũng như biết bao thuyền nhân khác, chúng tôi phải đối mặt với vô vàn khó khăn và làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh, ổn định đời sống và tiếp tục cho con ăn học thì không phải là dễ dàng gì, nhưng cũng không phải là khó lắm nếu mình có quyết tâm. Ông thì sang một cửa hàng bán sandwich và thức ăn nhanh (fast food ) học chế biến thức ăn và tự điều hành cửa hàng, còn tôi thì đi làm trong hãng đóng gói đồ nữ trang,
Nhưng, định mệnh vẫn còn muốn trêu ngươi tôi. Cơn bệnh ung thư ngực quái ác đã tìm đến với tôi, như thêm một đòn giáng chí mạng vào cuộc đời bất hạnh. Tiền bạc không có. Bảo hiểm sức khỏe không có. Người thân không có. Luật lệ, kiến thức của xứ người tôi cũng không có. Sẽ như thế nào, những ngày trước mắt của ba mẹ con tôi?
Nói đến những chuyện lừa gạt, hẳn mọi người cũng đã biết qua, từ tin tức báo chí, trên đài truyền hình, và rất nhiều chuyện phỉnh gạt thường xuyên xảy ra được truyền miệng từ người này qua người khác đã lâu rồi. Trong thời gian dịch bệnh, cấm cửa, lạm phát, kinh tế khó khăn, nên đã sinh ra nhiều chuyện lường gạt đảo điên không ai lường trước được. Con người nghĩ ra đủ cách để mà lường gạt nhau. Cùng lúc, đã vậy lại còn nhiều điều không may đã ập đến, không trở tay kịp, khiến cho cuộc đời đang lo toan dịch bệnh lại thêm lo lắng, vừa tình hình dịch bệnh, lại thêm thế thái nhân tình, nhân cơ hội, lợi dụng tình thế mà gia tăng, đã làm cho tinh thần mọi người càng thêm căng thẳng gấp bội.
Nhạc sĩ Cung Tiến