Hôm nay,  

cổ tích trên sông…

04/02/202200:00:00(Xem: 2945)
Tranh-minh-họa_Cao-Bá-Minh
hình minh họa - tranh Cao Bá Minh
 
Mỗi năm tết đến, không riêng thời tiết, không gian đầy hoài niệm vì sắp thêm một năm nữa đi qua, lòng người cũng bâng khuâng trước tương lai năm mới sắp đến, luyến tiếc mất còn trong năm cũ sắp hết và đặc biệt là không bao giờ trở lại. Rồi năm mới đến sẽ ra sao với tuổi đời ngày càng chồng chất những lo toan, muộn phiền. Thế là hoài niệm cứ tuôn chảy, nhìn về tương lai như bầu trời xám bên ngoài khung cửa. Còn chăng những vui buồn đã qua, những buồn vui không mong sẽ đến.
  
Nhớ khi còn nhỏ thì đến hè cũng có cảm giác tương tự như tết khi kết thúc năm học, nhưng sau vài tháng hè sẽ là năm học mới, gặp lại bạn bè là quên hết ưu tư về sự chia tay nào cũng buồn, nhưng chia tay bạn bè mấy tháng sẽ gặp lại, khác với sự chia tay năm cũ vì thời gian đi qua sẽ không trở lại. Hiểu được như thế là tuổi vô tư lặng lẽ hết để tuổi biết buồn về, văng vẳng bên nhà hàng xóm có tiếng hát bay sang, “trời sắp tết hay lòng mình đang tết…” Ở mỗi độ tuổi có cảm nhận khác nhau, tuổi thơ chỉ biết vui được nghỉ học, về quê ăn tết với thịt cá, bánh trái ê hề, được uống nước xá xị hiệu con nai thả cửa là vui nhất tuổi thơ, và vui ngất ngây hơn là tắm sông, bắt dế đã đời. Đến tuổi biết rung động trước ai đó thì trời vẫn sắp tết nhưng lòng mình có đang tết hay không đã là chuyện khác rồi, tùy vào quan hệ trong năm cũ sắp hết đã tốt đẹp hơn, thân thiết hơn hay ngược lại.
  
Rồi tuổi đã có gia đình. Sau một năm làm ăn khấm khá, gia đạo bình yên, những ngày giáp tết cũng có tết ở trong lòng là cảm giác mãn nguyện. Và ngược lại là những năm làm ăn thua lỗ, tới tết phải xoay sở đầu này lấp đầu kia cho tạm ổn qua năm tính tiếp. Đến những cái tết xa quê thật hụt hẫng, từ nơi xa tới mất phương hướng trong cuộc sống xứ người, khó định hướng quê nhà ở phương nào vì khoảng cách quá xa thì tết vẫn đến. Trời sắp tết vẫn mang mang những vui buồn lẫn lộn, lòng đang tết vẫn hoài nghi chính mình là tự an ủi hơn là được vui. Nhưng đến một lúc nào đó, người ta đi qua quá nhiều những cái tết vui buồn lẫn lộn mới biết cái tết nào là tết ở trong lòng. Tết ở trong lòng vượt khỏi cảm xúc vui hay buồn với thực tại vì nó thực sự là tết. Đời người dường như có được một cái tết ở trong lòng là đủ vì cái tết ấy ngoài ý nghĩa cội nguồn, nhắc mình là ai, đang sống thế nào, nơi đâu. Dù đang vui hay buồn thì cái tết ấy vẫn ở trong lòng với niềm hoan hỉ nhất, khác với những cái tết thành công hay thất bại trên đường đời, được qúy mến hơn hay ra rìa trong tình cảm con người luôn không ổn định.
  
Có một chiều giáp tết khi sắp ra trường, tôi ngồi ở quán cà phê vườn dưới dạ cầu Ông lớn, vạt nắng cuối ngày hắt xuống ngã ba sông màu vàng sa di, cái máy cassette cũ trong quán đang chạy những cuộc băng cũ (nhão) nên tiếng hát càng thê lương với những xuân khúc thường nghe trước ‘75. Tôi ngồi nhìn lục bình trôi vô ưu, lòng tự hỏi giề lục bình kia có buồn khi nó được sinh ra tức là tách ra từ một giề lục bình lớn hơn bởi gió mưa, vì từ đó nó sống đời nước chảy hoa trôi. Giề lục bình nhỏ nhoi bắt đầu một phận đời lênh đênh trên giòng vô định. Chắc chắn có lúc nào đó trong đời nó đã mạnh mẽ lên, xanh um, rồi ra hoa màu tím để làm đẹp cho đời. Nên tôi buồn cho sự kết thúc của nó vào một chiều giáp tết; giề lục bình xác xơ, lặng lẽ, âm thầm chìm xuống đáy sông sâu, nơi nó không hề biết trước trong định mệnh của vạn vật. Tôi cũng sắp hết phải đi học, qua tết tới hè là ra trường. Đi nhận nhiệm sở ở đâu cũng chưa biết, mà cũng chẳng cần biết như giề lục bình không biết nơi nó được sinh ra và nơi nó vừa từ giã cõi đời là đâu, ai là người đưa tiễn nó? Đó là cái tết ở trong lòng tôi đã nhiều năm. Ăn tết với giề lục bình.
  
Đến một chiều cổ tích trên sông. Khi cô giáo có phần chơi thân với tôi trong khu tập thể giáo viên mà tôi đang sống. Cô chắt chiu, hà tiện những đồng lương ít ỏi từ bao giờ để có thể mua được từ nhà học trò chục trứng vịt, mấy kí nếp, con gà sống… Phụ huynh học sinh thường nửa bán nửa biếu cho thầy cô về ăn tết nên giá rẻ lại được ngon hơn mua chợ. Rồi niềm vui háo hức trong mắt lệ cho người là tôi từ chối không cùng về Sài gòn với cô. Nghĩa là tết không gặp. Tôi ở lại trường.
  
Chiều ba mươi tết yên vắng trong khu tập thể vốn đầy ắp tiếng cười của thầy cô giáo trẻ càng tịch liêu. Tôi nghĩ đến những người lính ngày xưa không về nhà ăn tết, chắc họ buồn lắm! “Con biết xuân này mẹ chờ tin con… ; đàn trẻ thơ ngây ngồi chờ mong anh trai sẽ đem về cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe xóm làng…” Sao hoà bình rồi, những lớp trẻ lớn lên vẫn mịt mù tương lai như khói lửa thời chiến tranh. Các anh tôi không còn là những người lính xa nhà mà họ đã thành những kẻ chiến bại, đang biệt xứ hay tù đày không biết đến bao giờ.
  
Một chiều giáp tết cô độc mà tôi thường hoài niệm là chiều cổ tích trên sông. Khi không còn chịu nổi sự cô đơn trong khu tập thể chỉ còn lại một mình. Khi nhìn kia là ngọn đèn bình ắc-quy với bộ bài mà chúng tôi thường ngồi chặt hẻo đợi đò vì mỗi ngày chỉ có một chuyến đò về thành phố sẽ cặp cầu gỗ rước khách lúc hai giờ đêm. Đứa nào ngủ quên thì khỏi về nhà nên anh em cứ thường ngồi chơi bài tới hai giờ sáng để ra đò.
  
Tôi bước sang phòng nữ để xem lại cửa nẻo cho các cô giáo trước khi tôi đi bụi tới sáng trong xóm dân cho đỡ buồn. Cái nón cũ của cô Nhiên trên tường còn lan tỏa linh hồn thiếu nữ đã chết vì vượt biển. Nhưng những cô giáo chung phòng nữ chỉ biết thương con Nhiên bỏ nhiệm sở, nên treo cái nón cái bang của Sếu-Nhiên để nhớ cây cười có hạng với những chuyện nói nhỏ cười to… Vài thầy giáo biết cô Nhiên đã qua đời nhưng không ai nói ra vì sợ các cô bên phòng nữ sợ ma, đem đốt cái nón với mùng mềm của cô Nhiên thì quá tội cho một vong linh còn chưa kịp hiểu vì sao tôi phải chết mà đã chết?
  
Tôi đi khi hoàng hôn đã đỏ ối trên sông Soài. Nỗi bâng khuâng nhỏ nhoi trong lòng, trong khu tập thể chật hẹp đã có không gian thoáng rộng ngoài bến sông nên lòng thấy nhẹ nhõm hơn. Xa xa, chiếc ghe có mui ngoài sông lớn đang chơi vơi năm hết tết đến. Nó chỉ còn là hình bóng của chiếc thuyền con trên sông trôi. Một chiếc bóng nghĩa đen khi không nhận dạng được người chèo trong chiều chạng vạng; và một chiếc bóng theo nghĩa lẻ loi đang bơi trên dòng nước ngược, dòng cơm áo nhọc phiền…
  
Người chèo ghe phất khăn rằng chào tôi, nên tôi khoát tay chào lại vì có thét lớn cách mấy thì gió sông Soài cũng không nghe được, nhưng chiếc ghe quay mũi vô bờ nên tôi dừng lại đợi. Trong chạng vạng sông nước hữu tình, dáng người phụ nữ chèo ghe in lên nền trời tuyệt phẩm của tạo hoá thật đẹp. Đó là chị Mười, người phụ nữ cao, gầy, cỡ ba mươi tuổi. Làn da ngăm của chị mê hoặc, sự rắn chắc của cơ thể do chèo ghe quanh năm từ mở mắt tới đi ngủ. Đôi mắt sâu thăm thẳm nỗi niềm của chị như thôi miên. Chị thường mặc quần đen, áo bà ba đen, trên cổ lúc nào cũng có cái khăn ca-rô trắng đen, khi lạnh thì quấn lên đầu như người đi tế thần linh.
  
Tôi quen biết chị, đã gặp vài lần, ăn cơm chung với chị cũng đôi lần ở nhà một học trò mà mẹ của em ấy như người bạn thân của chị Mười, nên chị thường ghé ăn cơm khi ngang qua nhà bạn. Tôi không nói chuyện nhiều với chị nhưng giữa tôi với chị có sự thầm hiểu nào đó, mà lắm lúc tôi tin là sự che giấu thân phận có tài tình cách mấy thì cũng có lúc sơ hở bộc lộ bản thân.
  

Nhưng những bữa cơm ấy cũng chỉ qua loa chuyện thường ngày trong lúc ăn. Chuyện đàn bà còn lại sau bữa cơm của chị với mẹ đứa học trò thường ở dưới bếp; tôi với cha đứa học trò thường lên nhà trên uống trà, hay uống cho hết chai rượu đã mua.
  
Đây là lần đầu tiên tôi gặp riêng chị,
  
Khi chiếc ghe đã vào bờ, chị cười tươi như bậu mới về, “Thầy có nhìn ra tui không? Tui ngoài sông nhìn vô cũng biết là thầy…”
  
“Tôi nhìn ra sông chỉ thấy chiếc ghe, chứ làm sao biết ai đang chèo. Sao chị nhìn hay vậy?”
  
“Thầy coi. Ở đây đàn ông có mình thầy tóc dài. Nhìn là biết liền hà…”
  
“Thì ra… Chị đang về nhà hả, kịp đón giao thừa không”
  
Bỗng gương mặt chị tối sầm xuống như trời chuyển mưa. Bao vui tươi, hớn hở, biến đi nhanh như gió sông Soài. Đôi mắt người phụ nữ Miên cũng xài ngôn ngữ chung của phụ nữ là dễ rươm rướm. Chị nói nghẹn ngào, “Phải như tui có nhà… để về.”
  
Đúng là chiều giáp tết, chữ “về” đè nặng tâm tư mọi người. Vậy chữ “ở” có chia sẻ được chơi vơi trong lòng người thương hồ đơn thân độc mộc. Sự chơi vơi trong lòng tôi, không cách gì đến được nơi muốn đến vì cũng không biết được là mình muốn đến đâu trong cảnh tù túng của ý thức, nghèo túng của đời sống đến không đủ tiền tàu xe để về nhà. Biết là vay mượn không khó, nhưng sống đời vay mượn đến bao giờ?
  
Tôi bước xuống ghe không suy nghĩ, đạp cành mắm đẩy mũi ghe ra…
  
“Chèo đi chị Mười.”
  
“Thầy muốn đi đâu?”
  
“…cùng trời cuối đất.”
  
“Sao thầy không về nhà ăn tết?”
  
“…”
 
  “…Chị dạy tôi chèo đi. Tôi chèo chị đi chơi cho đỡ buồn. Đi đâu cũng được vì tôi đã nghỉ dạy tới qua tết nhưng không muốn về nhà. Không ai bắt tôi ở lại trường, và tôi cũng không biết đi đâu nữa…”
  
Chị không nói gì thêm. Không dạy tôi chèo. Chỉ cho ghe ra chừng gần giữa dòng thì xổ buồm - là miếng bao cát bằng ny-lon của lính ngày xưa, tấm buồm vá chằng vá đụp hình tam giác có khung tre, căng trên cây tre như cây nêu vừa được dựng lên để hai kẻ cô đơn cùng ăn tết. Tôi nghĩ vậy trong im lặng, chắc chị cũng hiểu vậy trong linh tính nên chị cũng im lặng, dõi mắt về quá khứ thì phải. Phía chân trời đỏ bầm của ngày tàn, có một gia đình hoàng tộc bên Cao Miên, bị Pôn-pốt chặt đầu thả sông không chừa một mạng. Nhưng xảy đứa bé gái còn vương nợ trần nên từ đó điêu linh. Giai nhân phiêu bạt chiều giáp tết đang ngóng về cố thổ trong bộ dạng thương hồ làm mặt trời đỏ ối trên sông cũng hổ thẹn mà trốn biệt! Sự che giấu thân phận của chị nhưng cốt cách hoàng tộc vẫn nhìn ra được trong bộ dạng thường dân của nàng công chúa không chừng, vì tôi thấy trên ghe có bàn chải đánh răng với cây kem ngoại quốc chứ không phải hàng “nhu yếu phẩm” của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Trong cái xứ sáng ra chỉ thấy người súc miệng bằng nước lu đã là văn minh, thầy giáo, cô giáo thì đánh răng bằng muối bọt là chuyện thường ngày ở huyện. Ngoài ra, trong giao tiếp ít ỏi của chị với người trên bờ là gia đình đứa học trò. Tôi có lần thấy chị thiếu từ Việt để diễn tả nên chị đã dùng tiếng Pháp lẩm bẩm trong miệng để truy ra tiếng Việt như tra tự điển. Làm cho tôi tin tâm sự của chị đã kể với mẹ của đứa học trò mà có lần bà đã kể lại cho tôi nghe trong sự bí mật chỉ để giải thích việc bà thương chị Mười như chị em ruột của bà vì bà cũng lâm vào hoạn nạn tương tự như chị hồi 30 tháng 04 năm 1975… Chị Mười thì bị pôn-pốt truy sát khi người ở, bà vú của gia đình chị không che giấu cho chị được nữa nên buộc chị phải trốn sang Việt nam, sống nghề thương hồ là chọn lựa thích hợp nhất cho người muốn lánh mặt.
   …
  
Trời nổi giông lên, mây đen kéo về rền tiếng sét. Những hạt mưa đã lắc rắc trên mui ghe, cũng bằng khung tre, căng ny-lon bao cát của lính ngày xưa. Chị hối hả cho ghe vô bờ, “Thôi thầy lên bờ, về nhà nghỉ nha. Dưới ghe lạnh lắm. Mà mui ghe cũng bị dột nữa…”
  
Ngần ấy tả tơi giáng lên thân người cô độc nên tôi không lên bờ. Chị neo ghe tạm dưới dạ cầu Cá sấu một hồi cũng không xong vì ván lót cầu mục gãy đã nhiều, mưa trút không thương. Gió vi vu buốt cuộc đời buồn lại thêm tiếng mưa về đêm oai oán, hay những linh hồn chưa chịu ngủ yên bên bờ lau sậy này đang đón giao thừa. Tôi nói chị Mười lủi ghe vô đám dừa nước gần đó, coi như đậu ghe trong căn nhà lá rồi còn gì?
  
Chị khen tôi thông minh nên chị cũng vâng lời như một học sinh ngoan. Quả thật chiếc ghe núp dưới vòm lá dừa dầy đặc nên chuyện mui ghe bị dột không làm khó nữa. Chỉ còn hai cái bao tử kêu chiều chưa có gì bỏ bụng trên chiếc ghe là ghe thương hồ. Nào là khoai lang, bí đỏ, dừa khô, cá mắm, cá khô, bắp chuối, chuối nải, chuối khô… không biết có bao nhiêu thứ trên ghe.
  
Không ngờ chị cũng đang đợi tôi mở lời để chị bớt ngại đãi tôi một bữa ăn trên ghe thương hồ. Mà tôi thì có cái tự nhiên của tuổi trẻ,
  
“Chị Mười ơi! Trên ghe có gì ăn được không? Tôi đói bụng quá rồi!”
  
“Nếu thầy không ngại. Thì tui nấu cơm cho thầy ăn?”

   “Nấu đi. Sao nãy giờ không nấu! Tôi thích nấu ăn trên ghe lắm. Lần, con Lan, thằng Đức, thằng Tâm, con Hạnh… học trò, tụi nó nấu cháo cá kèo với nước dừa trên ghe cho tôi ăn. Tôi nhớ hoài vì ngon lạ lùng…”

   “Thầy nói thiệt hả? Vậy mà nãy giờ tui ngại nên không dám mời thầy ăn cơm.”

   Thật khó quên được sự xoay trở tài tình của chị Mười trên chiếc ghe thương hồ cũ kỹ, nhỏ nhoi. Loáng một lát chị đã nấu được nồi canh chua xịa với bạc hà, cà chua, me trái, ớt trái, giá,… Con xịa là một loại nghêu biển giống con nghêu trắng nhưng to hơn, vỏ nó nâu, ruột nó đen hơn, nhìn không đẹp mắt bằng nhưng ăn ngon ngọt hơn nghêu trắng. Cơm thì nồi cơm nguội có sẵn. Chừng ăn hết nồi cơm này mới nấu nồi cơm khác chứ không nấu theo từng bữa như ở trên đất, ở nhà. Chị luộc hột vịt lộn, chiên khô lóc để uống rượu lậu. Loại rượu đế lạnh vì chị cột đến mấy bình dưới lườn ghe. Khi bị công an chặn bắt rượu cấm thì chỉ tháo mối dây dù chỗ cột chèo là mấy bình rượu vô chủ dưới sông. Bọn công an biết mánh khoé của dân thương hồ nhưng làm lơ để chúng vớt sau khi cho người chủ ghe bị khám xét được đi.

   Bây giờ thì chị kéo lên mấy bình nướt mắt quê hương, tháo một bình, đưa lên ghe đãi ông thầy chưa dạy chị một chữ mà thọ giáo hơi nhiều về cách nấu ăn trên ghe của chị. Chiếc ghe tròng trành do quá nhỏ bé với hai người và hàng hoá linh tinh. Dọn được chỗ ăn cơm đã mừng. Ánh đèn dầu lung linh chị đẹp não nùng như mưa chiều kỷ niệm.

   Ngồi nhậu sau khi ăn cơm nên tắt đèn dầu để tiết kiệm. Ngọn đèn bão lu lu, khi tỏ khi mờ theo những lọn gió tọc mạch. Lần đầu tiên tôi được ăn con xịa trong nồi canh chua dư vị một đời. Cũng là lần đầu uống rượu đế bằng cái vỏ trứng hột vịt lộn. Thì ra sao chị nói lạ, “Thầy ăn hết một cái trứng trước đi để lấy ly uống rượu!”

    Mưa ngọt ngoài trời cho lòng tôi ấm mãi trong chiếc thuyền không bến. Nên suốt phần đời còn lại từ đó về sau cứ nhớ tiếng còi tàu lúc hai giờ sáng. Chị Mười đánh thức tôi, đưa tôi ra bến đò, dúi vào tay tôi cuộn tiền thương hồ cơ cực của chị, “thầy cầm chút, tấm lòng của tui gởi thầy mà đi đò, xe về nhà. Dù lòng thầy không muốn ăn tết thì cũng phải về nhà…”

   Tôi nắm bàn tay chai xạm vì chèo ghe của chị, lời cảm ơn không nói ra được nên nghẹn ngào quay đi. Hơi ấm của cái mền rách bươm nặng mùi tóc chị còn mãi trong tâm khảm theo dòng đời trôi mênh mang nên trời giáp tết lại nhớ đến cái tết ở trong lòng đã bao năm không về lại bến sông xưa.
 

Ý kiến bạn đọc
09/02/202221:45:19
Khách
Viết truyện / tùy bút như vầy là đạt đạo! Kính cảm ơn tác giả.
07/02/202210:42:35
Khách
Đọc được câu chuyện ngắn (tuỳ bút) thật cảm động và buồn, không rõ tên tác giả, nhưng thấy tên của họa sĩ Cao Bá Minh, người đã cùng làm việc chung với tôi ở SĐ1 KQ ở Đà Nẵng trước năm 1975. Tôi rất muốn được liên lạc lại với CBM. Xin quí vị giúp tôi nếu không có gì trở ngại. Xin cám ơn trước. Hiện tại tôi đang sống ở Úc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 538,639
Tháng 4 luôn nhắc nhớ, chúng ta từ đâu đến đây, chúng ta may mắn hơn người còn ở lại VN, hạnh phúc hơn người bỏ xác trên biển, hãy sống xứng đáng với cái giá chúng ta phải trả mới có ngày hôm nay. Hãy tôn trọng và nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình chúng ta, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI đã đón nhận và giúp đỡ chúng ta, nơi đây là điểm dừng cuối đời của chúng ta và là Quê Hương thật sự của con cháu chúng ta.
Nhập ngũ vào Thủ Đức sau biến cố Mậu Thân 1968 khi đang theo học năm thứ hai Cao Học Sử Địa tại Văn Khoa Saigon, anh được chọn vào Không Quân, và có lẽ do bản chất yêu thích văn nghệ với sở trường ca hát và đờn địch, anh vào làm việc trong ban Tâm Lý Chiến của Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa, đi từ cấp bậc Chuẩn Úy cho đến Đại Úy. Đầu năm 1975, anh lấy vợ, một nữ quân nhân phục vụ trong phòng Xã Hội cũng tại sư đoàn 3 Không Quân. Vợ chồng anh ở trong trại sĩ quan của đơn vị cho đến ngày mất nước. Khi anh vào tù, chị trở về quê sống với cha mẹ chị gần Cần Thơ.
Phải nhìn nhận rằng Lão là con người hiền lành, rất hiền lành! Nói theo kiểu người mình hay nói là hiền như cục đất! Lão hiền từ trong nhà ra tới ngoài đường. Chưa bao giờ lão lớn tiếng, hay nói những lời nóng nảy, cộc cằn với bất cứ ai! Cái tâm lão cũng vô cùng là hiền, hiền cả với cây cỏ, với thú vật! Lân la ngoài vườn nhiều khi thấy ớt con hoặc é quế mọc nhiều quá, mụ vợ nhổ quăng bớt. Nếu thấy được lão nhặt chúng đem đi chỗ khác trồng! Mụ kền rền, lão bảo: “Chúng nó cũng muốn sống mà!” Bất cứ con bọ nào bất chợt lọt vào trong nhà là lão túm lấy mở cửa quăng ra ngoài, vừa quăng lão vừa nói: - Đi về nhà mày đi, ở đây lâu là có cơ hội xuống ống cống đấy! Ý lão ám chỉ mụ! Mụ ghét nhất bất cứ con gì chui vào nhà, trông thấy là mụ quăng ngay vào bồn cầu, giật nước mất tích luôn!
Hôm nay trời trong, nắng vàng rực rỡ nhưng lạnh. Hàn thử biểu cho thấy buổi sáng 47độ và trưa được 54 độ F. Vào buổi chiều 16 giờ khí tượng cho biết sẽ có mưa. Từ hôm qua các con đã khuyến khích tôi đi xem hoa đào vì sợ sau cơn mưa, phần lớn hoa sẽ rơi rụng, tơi tả không còn đẹp nữa. Qua video người bạn gửi cho xem thấy hoa đào ở Tidal Basin thủ đô Hoa Thinh Đốn đã nở rộ.
Với Hai Búng thì có nhiều chuyện để nói. Tên trên giấy tờ là Phạm Bình Nhâm, nhưng từ khi vào quân đội, ban bè cùng khóa đặt cho hắn cái tên mới là Búng - Hai Búng. Sở dĩ hắn mang cái biệt danh (nickname) này vì nhà hắn gần chợ Búng mà khi nhắc đến chợ Búng, hắn say sưa nói miết - quên thôi! Hắn tả cảnh, tả tình về quê hương của hắn với những vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, An Sơn, Bình Nhâm (nơi sinh quán của hắn) hấp dẫn đến mức mà người nghe thấy mát rượi với những cây chôm chôm, măng cụt, sầu riêng... ngát hương vườn lài, thơm phức mùi sầu riêng và ngọt lịm mùi lò đường, ruộng mía ven sông …Và bao gìờ kết thúc câu chuyện cũng là lời mời rất chân tình: “Khi nào đi qua Chợ Búng, nhớ ghé nhà tao, tao sẽ đưa tụi mày đi ăn bánh bèo bì Mỹ Liên, hay Ngọc Hương, hai tiệm bánh bèo bì nổi tiếng không những ở chợ Búng mà khắp nước đấy. Rồi về nhà tao, mẹ tao sẽ đãi một bữa cháo vịt – thịt vịt bầu mà chấm nuớc mắm gừng do mẹ tao pha chế thì hết sẩy – Tụi mày sẽ nhớ đời …”
Hồi tôi ở trại tỵ nạn, trầy trật bốn năm trời mới vượt qua cuộc thanh lọc đáng ghét, và khi gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn thì bị từ chối, mặc dù tôi có đầy đủ gia đình ở bển. Còn chồng tôi, cả giòng họ rủ nhau đi vượt biên rất sớm, năm 1977 khi cả miền Nam đang vào cơn tàn tạ dưới bàn tay của “bên thắng cuộc”. Trong khi ở trại Mã Lai chờ phái đoàn Mỹ, thì phái đoàn Canada lơn tơn xuất hiện, gia đình chồng tôi nôn nóng thoát khỏi cuộc sống tù túng ở trại nên nhắm mắt đưa chân qua Canada định cư luôn một lèo. Sau đó, chồng tôi đi học, vào cấp ba rồi Đại Học, quyết chí thực hiện giấc mơ Mỹ Quốc năm xưa, bèn nộp vào trường Đại Học tại New York. Khi nộp đơn thì hào hứng, đến khi được nhận thì bị bà má chồng “bàn ra”, vì sợ tốn kém với số “student loan” quá lớn, chồng tôi cũng bị nản chí, không qua đó học nữa.
Thời gian gần đây, tôi đọc được bài ký sự sống động đã cho tôi một bài học trân quý về nền giáo dục của Hoa Kỳ từ tác giả Hạ Vũ, với câu chuyện “Tôi làm Cô giáo nhà trẻ Mỹ” trên mục VVNM trang Việt Báo. Tác giả kể chi tiết từng hoạt động và phương pháp chăm sóc trẻ nhỏ tại lớp học. Từ việc chuẩn bị môi trường sạch sẽ, an toàn và cách cho trẻ ăn uống, vệ sinh đến giấc ngủ trưa yên lành; ngay cả việc vệ sinh cho bé cũng phải hết sức kiên nhẫn và luôn dùng chữ “please” để khởi đầu và cho biết mình sắp làm gì đó cho trẻ, chữ “thank you” để cảm ơn trẻ đã cộng tác, dù việc đó là phục vụ cho chính các em.
Trong 53 năm, chúng tôi kề cận, nhường nhịn, yêu thương và chăm sóc nhau để cùng xây dựng cuộc sống riêng sau khi cả hai chúng tôi học xong đại học. Chúng tôi đã có một gia đình nhỏ an vui với hai con trai. Và từ khi chúng tôi đem hai cô con gái nhà người dưng, mang về làm hai con gái ruột nhà mình thì gia đình chúng tôi có thêm ba đứa cháu. Nay, các con đã thành nhân, các cháu thì đã có đứa chuẩn bị vào đại học. Hai con trai của chúng tôi đã có nghề nghiệp vững vàng, chúng đã có nhà riêng. Chúng tôi già dặn hơn cùng với sự trưởng thành của con cháu. Hai chúng tôi đã về hưu, vẫn cùng có nhau, tiếp tục nhường nhịn, chăm lo cho nhau trong những năm tháng cuối đời...
Dallas mới qua một đợt lạnh khủng hoảng sau lễ tình yêu, nghỉ học nghỉ làm tuyết đá đầy đường. Hy vọng là đợt lạnh cuối mùa vì thời tiết Texas khó đoán bởi đôi khi sang tháng tư còn tuyết. Tội nghiệp những người thích trồng, họ thường gieo hạt giống trong garage từ cuối tháng hai để sang tháng ba là đậu bắp đã cao được gang tay, cà chua non nhìn mắc ham, những cây ớt xanh mát mắt... Đợi tháng ba cho ra vườn là sớm có ăn, nhưng đầu tháng tư trời lại đổ cho trận tuyết làm cây con chết ráo. Những người mê trồng tính khôn ăn sớm nên gieo hạt trong garage từ cuối tháng hai lại hoá ra ăn muộn vì phải gieo hạt lại lần nữa.
Các nhà khoa học có thể đưa ra tuổi thọ trung bình của một người, nhưng chưa có một thống kê nào cho biết mỗi người từ khi sinh ra cho đến khi nằm xuống đã ở được khoảng bao nhiêu căn nhà! Điều này có thể nói lên mỗi người có những nhu cầu “xê dịch” rất khác nhau. Sau hiệp định Genève 1954, cuộc sống của người Việt Quốc Gia chỉ trong phạm vi từ vĩ tuyến 17 cho đến Mũi Cà Mau. Nhưng kể từ năm 1975 cho đến nay thì “nhà Việt Nam” đã có mặt tại hơn 130 quốc gia trên thế giới. Mỗi một căn nhà của người Việt trên quê người gói ghém tất cả những thăng trầm của một đời lưu lạc nơi đất khách; là những vinh nhục, được mất, hy sinh, đánh đổi để tồn tại. Biết bao người bôn ba ra hải ngoại đang sống trong những căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi; nhưng từ trong sâu thẳm họ vẫn không quên được căn nhà cũ của mình trên quê mẹ!
Nhạc sĩ Cung Tiến