Hôm nay,  

Vì Sao Tôi Dự Thi Viết Về Nước Mỹ

07/02/202213:20:00(Xem: 3100)
Kim Loan_IMG_1400_02072022
Giải Đặc Biệt VVNM 2021 - TG Phương Hoa nhận giùm giải thưởng cho tác giả Kim Loan.

 

Buổi lễ Ra Mắt Sách và phát giải thưởng Viết Về Nước Mỹ lần thứ 22 đã qua mà dư âm vẫn còn vang vọng bên tận xứ lạnh tình nồng Canada của tôi.

 

Tôi đã từng dự định bay qua California để lãnh giải, đã chuẩn bị một bộ áo dài rực rỡ để lên chụp hình với những văn, thi sĩ mà tôi ngưỡng mộ cũng như các anh chị em trúng giải để làm kỷ niệm. Nhưng cuối cùng, gia đình tôi có việc bận bất ngờ, tôi đành phải thông báo cho Ban Tổ Chức và xem chương trình phát giải tại nhà.

 

Ông bà ta đã nói, việc gì cũng phải có đầu có đũa, nên nhân mùa đầu năm …rảnh rỗi, tôi xin được “ba điều bốn chuyện” kể lể về lý do, căn nguyên nào thúc đẩy tôi tham dự cuộc thi “Viết Về Nước Mỹ” mặc dù tôi là công dân Canada.

 

Nói không phải “nổ” chớ, tôi đã yêu nước Mỹ từ khi mới bước chân vào lớp Một. Suốt mấy năm tiểu học, tôi học trường Nguyễn Công Trứ, nằm trong khuôn viên Khu Quân Trang, hiệu trưởng là một Sĩ Quan (Thiếu Tá) VNCH. Vì là trường học thuộc quân đội, nên lũ “học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau” chúng tôi cũng được hưởng chế độ viện trợ của Mỹ. Cứ ba lần trong tuần, có xe chở sữa đẩy đến cửa từng lớp học, đến lớp nào thì cô giáo lùa học sinh ra xếp hàng, mỗi em được một ly sữa tươi và một lát bánh mì mà chúng tôi gọi là “bánh mì Mỹ”. Tôi còn nhớ đó là sữa hiệu Foremost để vào ly nhựa màu xanh lá cây, có in chữ f màu trắng thật to. Anh Năm của tôi, lớn hơn tôi vài tuổi, học ở trường khác, thỉnh thoảng buổi sáng hay dúi vào tay tôi cái bao đựng cơm sấy của quân đội (đã dùng xong), dặn dò: 

 

- Nếu em uống sữa không hết, nhớ bỏ vào bao đem về cho anh, nghe chưa! Sữa Mỹ thơm lắm, bỏ uổng!

 

Nhà tôi là cửa hàng bán cà phê và nước giải khát, sữa đặc hiệu Ông Thọ thiếu gì, thế mà anh Năm tôi chỉ mê...sữa Mỹ.

 

Còn bé, ham chơi nên tôi lúc nhớ lúc quên, mà bữa nào tôi nhớ đem sữa thừa của tôi về thì anh tôi thích lắm, bỏ sữa vào ly, quậy thêm chút đường và thêm đá cục rồi ngồi vào bàn vừa học bài vừa nhâm nhi “sữa Mỹ”. Có khi tôi ngán “bánh mì Mỹ”, gói đem về nhà cùng với sữa thì anh tôi càng vui hơn và no bụng hơn, khỏi ăn cơm chiều. Thế là chẳng những tôi mà anh Năm tôi cũng thích hàng Mỹ luôn.

 

Đó là ở trường, còn ở nhà thì xóm tôi ngay trước cổng Quân Cụ của chính quyền VNCH, kế bên một Câu Lạc Bộ Mỹ, ngoài ra còn có các trại lính, trại gia binh, nên hàng hoá Mỹ viện trợ được đem bán lại rất nhiều cho người dân xung quanh. Tôi mê nhứt hộp bơ đậu phộng, màu xanh lá đậm, dẹp dẹp, mở nắp ra, lấy ngón tay trỏ quẹt một miếng, bỏ vào miệng sung sướng cảm nhận vị thơm béo tan trên đầu lưỡi. Có lần tôi khóc cả buổi chiều, nhõng nhẽo đòi Má phải đi mua đúng hộp bơ đậu phộng tôi mới chịu …ăn cơm!

 

Tiếc thay, tôi chỉ được sống dưới chính quyền tự do dân chủ VNCH tới năm 9 tuổi thì đất nước bị đổi chủ, nhưng cũng không ngờ, duyên nợ với Mỹ Quốc vẫn còn tiếp tục.

 

Sau ngày tang thương 1975, người dân Miền Nam liều mạng “bỏ của chạy lấy người”, xông pha ra biển cả đi tìm tự do. Hai người anh của tôi lần lượt vượt biên đến trại tỵ nạn Thailand và Malaysia, rồi định cư bên Mỹ. Ôi, những lá thư từ Mỹ và những tấm hình xứ Mỹ đã biết bao lần làm trái tim mộng mơ của tôi …thêm mơ mộng, ước mong được đặt chân đến. Thế là, theo phong trào ở Sài Gòn bấy giờ, tôi ghi danh vào học các lớp Tiếng Anh (lúc này chính quyền Cộng Sản bắt đầu cho phép các trung tâm ngoại ngữ hoạt động). Vào đây học mới biết, cả thầy cô giáo và “học viên” đều là dân …phản động! Ai cũng muốn học Tiếng Anh chỉ với một mục đích cuối cùng là …đi Mỹ. Kẻ thì đang chờ đi ODP, người đang hy vọng H.O (lúc ấy, giữa thập niên 80s thì H.O chỉ mới là lời đồn đại), và một số người chẳng ngần ngại kể lại những chuyến vượt biên thất bại của mình, và hẹn ngày …ra khơi tiếp tục! 

 

Chẳng biết chính quyền có kiểm soát nội dung dạy Tiếng Anh không mà các lớp tôi học qua, thầy cô giáo đều dùng sách cũ trước 1975 như English For Today của Lê Bá Kong và một số sách khác mà tôi không nhớ tên. Nhiều bài trong giờ học, là nói về nước Mỹ, nói về các thành phố lớn như New York huyền hoặc mùa đông tuyết đổ, về Francisco lộng lẫy đẹp tươi, chúng tôi ngẩn ngơ nghe Thầy giảng mà tâm trí bay bổng đến tận bên kia bờ đại dương. Ông thầy giáo, nghe đâu trước năm 1975 là dân học ở Hội Việt Mỹ rồi sau đó có học bổng qua Mỹ một năm, thành ra Thầy kể chuyện Mỹ mới chính xác (hổng biết ổng có …thêm mắm thêm muối chút nào không, cả lớp há hốc miệng ra nghe với cặp mắt ngưỡng mộ, thán phục khiến ông Thầy hăng say kể về một trời kỷ niệm với Mỹ Quốc năm xưa).

 

Cũng trong thời gian ấy, ngoài những lá thư, hình ảnh của hai anh từ Wichita, Kansas và San Antonio Texas, gia đình chúng tôi còn biết thêm… mùi Mỹ qua những thùng quà mà cứ vài ba tháng chúng tôi nhận được giấy báo rồi hớn hở đến kho Sân Bay Tân Sơn Nhất lãnh đồ. Chờ đợi cả ngày, đem được thùng đồ về, cả nhà xúm lại khui thùng đồ. Nào vải vóc, xà bông, kem đánh răng, áo quần, thuốc Tây, kẹo bánh …đủ cả. Sau khi lấy đồ ra, thì cái thùng carton trống không còn để lại nơi góc nhà, chỉ vì còn cần...băng keo dán nơi thùng đồ, để lũ nhỏ còn đi học như tụi tôi khi cần băng keo (tape) thì cứ ra chỗ “thùng đồ” xẻo một miếng. Lúc ấy hàng hoá Việt Nam còn khan hiếm, ngay cả băng keo Mỹ cũng tốt hơn hẳn (dĩ nhiên rồi), mà anh tôi luôn cẩn thận trước khi gửi hàng về Việt Nam, dán vài lớp băng keo chung quanh thùng đồ. Cứ thế chúng tôi cứ “xẻo” dần băng keo, đến khi gần hết thì lại đến lượt …lãnh thùng đồ khác.

 

Cái thùng không, ngoài việc cung cấp băng keo cho chúng tôi khi cần, mà còn có cả công dụng …toả mùi thơm phảng phất khắp căn phòng. Đó là mùi hỗn hợp của vải vóc, xà bông Coast, một mùi thơm rất dễ chịu, mà anh chị em chúng tôi gọi đó là …mùi Mỹ. Nhỏ bạn thân hay chạy qua nhà tôi chơi, hễ vừa tới cửa mà đánh hơi thấy “mùi Mỹ” là nó biết  gia đình tôi mới được lãnh đồ, riết nó cũng quen và mê “mùi Mỹ”, thậm chí còn xin băng keo về dán đồ nhà nó nữa cơ, nó bảo xài băng keo Mỹ quen rồi, giờ xài loại khác hổng quen, ngon dữ đa!

 

Gia đình tôi có giấy bảo lãnh ODP của hai ông anh, nhưng hồ sơ giải quyết quá chậm, có lẽ vì quá đông người đợi chờ, nên cuối năm 1989, gia đình cho tôi đi vượt biên. 

Trên chuyến hải hành, trước khi bị sóng bão tơi bời, chúng tôi có một khoảng thời gian yên bình ngắm biển cả, ai cũng nao nức hỏi nhau sẽ đi định cư nước nào, thì hầu như câu trả lời đều là …Mỹ! Còn đi nước nào khác nữa chớ, vì lúc đó đối với tôi, thế giới bên ngoài nước Việt, vài nước Châu Á, và nước Châu Âu mà tôi học trong sách, thì chỉ có nước Mỹ ở Châu Mỹ xa xôi. 

 

Đến trại tỵ nạn, tôi lại được hưởng “mùi Mỹ” như khi xưa, nhưng lần này chỉ là một mùi thoảng rất nhanh và rất nhẹ nhàng, qua những lá thư. Cứ mỗi lần nhận thư của hai ông anh, tôi đem về, dùng cây kéo cẩn thận cắt một bên góc phong bì, rồi mở he hé, kê mũi vào hít hà …mùi Mỹ (chắc tôi bị …ghiền), nhắm mắt xuýt xoa thoả mãn cho đã “cơn ghiền”, rồi mới rút ruột lá thư ra đọc. Thỉnh thoảng, anh tôi nổi hứng khi gửi thư cho tôi, còn dán thêm vài thanh chewing gums, ui chu choa, ở trại lúc ấy, đó là món quà xa xỉ và mang “mùi Mỹ” rất đáng yêu.

 

Ủa, hình như nãy giờ tôi hơi dông dài, chưa vào chủ đề chính?! Bởi vậy ở nhà chồng con hay bảo tôi …lắm điều. Thôi để tôi kể tiếp, kẻo bị lạc đề qua chuyện chồng con!

 

Ở trại dài đăng đẳng bốn năm trời, vì thời điểm đó Cao Uỷ đã đóng cửa, những người đến trại muộn màng phải qua cửa ải “thanh lọc”. Tôi trong nhóm người may mắn, dù có trầy da tróc vẩy, cuối cùng cũng vượt qua cuộc thanh lọc, nhưng đến khi gặp phái đoàn Mỹ phỏng vần thì vận may không mỉm cười với tôi nữa. Phái đoàn Mỹ lúc bấy giờ chỉ nhận những trường hợp thực sự “tỵ nạn chính trị” như các cựu quân nhân VNCH, các thành phần chống đối chính quyền Cộng Sản không thể quay về Việt Nam, còn tôi có thân nhân bảo lãnh diện ODP nên bị loại vào danh sách “ non emergency”, không gấp gáp lắm, thậm chí ông trưởng phái đoàn còn gợi ý tôi nên quay về Việt Nam đi bảo lãnh cùng gia đình!  (Ngu sao về!? Đã tốn …3 cây vàng tiền vượt biên và mất 4 năm thanh xuân ở Thailand, về với Cộng Sản làm gì!) . Có lẽ ông ta cho tôi lời khuyên đó chỉ vì muốn bớt gánh nặng ngân sách nước Mỹ, vì nếu nhận tôi từ trại thì chính phủ Mỹ phải lo trợ cấp thời gian đầu, còn nếu tôi đi theo ODP thì người nhà phải lo hết). Bởi vậy khi được phái đoàn Canada phỏng vấn tôi đã đồng ý đi Canada, mà từ hồi vào trại tôi luôn... hờ hững ghẻ lạnh với đất nước xứ sở này. Thôi thì cũng sát bên Mỹ, cũng là nước tư bản tự do, nên tôi quyết định luôn, không đắn đo suy nghĩ!

 

Khác với nhiều người khi ở trại bị Mỹ từ chối, nay định cư ở nước khác, đâm ra chê bai Mỹ đủ điều, tôi được cái, nhớ dai nhưng không …thù lâu. Vả lại, Mỹ làm việc đúng nguyên tắc, nói sao làm vậy, chớ không nói một đàng làm một nẻo. Bằng chứng là hơn mười năm sau, khi tôi đã ổn định cuộc sống cùng chồng và hai con bên Canada, sở di trú Mỹ đã gửi thư, báo rằng hồ sơ bảo lãnh của anh tôi nay đã đến hạn (anh tôi vẫn kiên trì bổ túc hồ sơ của gia đình tôi), nếu tôi và chồng con vẫn muốn qua Mỹ thì nộp tiền làm visa và các thủ tục khác, nhưng vì nhiều lý do, mà lý do quan trọng nhất là việc làm pharmacist của chồng tôi nếu muốn qua Mỹ hành nghề phải thi lại một vài exams và cả TOEFL nữa, nên chúng tôi đã từ chối. Té ra tôi cũng …chảnh lắm chớ, hồi đó Mỹ từ chối tôi, giờ tôi từ chối lại, vậy là huề!

 

Nói cho vui vậy thôi, tôi tin vào số phận và chuyện định cư Canada là một duyên số, tôi yêu cả hai đất nước này, chưa bao giờ ghét Mỹ và hờn giận Mỹ như một số người khác, mà tại sao phải ghét khi mà tôi đã “lỡ yêu rồi làm sao …ghét được người ơi” và cả gia đình thân nhân ruột thịt của tôi đang ở bển?

 

Bởi vậy, khi nghe mấy chị quen biết trên các diễn đàn Thơ Văn nói về cuộc thi Viết Về Nước Mỹ do Việt Báo tổ chức tôi đã hăng hái viết bài tham gia. Chồng tôi là người đầu tiên …ngăn cản:

 

- Em biết gì về nước Mỹ mà dám thi?

 

Tôi cãi:

 

- Ủa, đâu cần phải ở ngay trong nước Mỹ, mà người ngoài Mỹ vẫn có những nghĩ suy những trải nghiệm về nước Mỹ chớ. Nội cái chuyện ngày xưa gia đình anh qua trại tỵ nạn Mã Lai tính đi Mỹ mà vì sốt ruột phải đi Canada rồi sau này tiếc đứt ruột cũng đủ cho em viết một truyện rồi đó!

 

Ổng hơi quê, nhưng vẫn cố vớt vát…bàn ra:

 

- Chuyện đó bình thường mà, nhưng làm sao em cạnh tranh với bao nhiêu cây viết khác đang sinh sống bên Mỹ?

 

- Thực ra, em dự thi vì cái thú vui viết lách, muốn thoả niềm đam mê, chia sẻ bài viết cho nhiều người đọc, còn chuyện trúng giải hay không chỉ là thứ yếu, nhưng dĩ nhiên, nếu trúng thì em... sung sướng hơn.

 

Mặc cho lời chế diễu của ông xã, tặng cho tôi hai giải “Can Đảm” và giải “Điếc Không Sợ Súng”, tôi vẫn say sưa viết, và gửi cỡ… chục bài tham gia (được chọn đăng sáu bài). Cuối cùng trời không phụ lòng người, tôi đã được giải Đặc Biệt. Ông xã tôi cười ha hả:

 

- Mèn ơi, em gửi cả chục bài khủng bố ban giám khảo nên người ta cho em trúng giải đó!

 

- Kệ chồng, có giải là em vui rồi anh nhé, anh muốn nói gì thì nói! 

 

Cậu em chung trại tỵ nạn ngày xưa, nay ở bên Mỹ, theo dõi các bài dự thi của tôi, khi biết tôi được giải, bèn cảm khái la lên:

 

- Nói thiệt với chị nghen, cái ông phái đoàn Mỹ hồi đó đã từ chối chị, không cho chị qua Mỹ, quả là một sai lầm lớn lao. Lẽ ra chị là công dân Mỹ mới phải!

 

Tôi đáp liền:

 

- Tình chỉ đẹp khi còn dang dở mà cưng. Nếu chị đang ở Mỹ thì biết đâu lại viết về Canada hiền hoà, mùa đông tuyết phủ rợp trời, White Xmas đẹp như những tấm postcards!?”

 

Ngày ban tổ chức làm lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ, tôi và ông xã xem qua hình ảnh, và vài ngày sau được xem cả chương trình qua đài SBTN mà một thân hữu gửi link. Buổi lễ trang trọng, ấm cúng, phần ca nhạc là những nhạc phẩm giá trị được trình bày qua những tiếng hát có nội lực. Tôi được thấy những khuôn mặt xưa nay chỉ biết tên qua các bài dự thi, được biết thêm nhiều điều rất thú vị. Thấy tôi ngẩn ngơ tiếc nuối, ông xã tôi lại… khơi mào:

 

- Lần trước em gửi chục bài, vậy lần này còn …ý tưởng gì để dự thi nữa không?

 

Tôi ỡm ờ:

 

- Dĩ nhiên là vẫn còn, anh...đợi đấy...!

- Vậy em thi nữa đi, lần này mà trúng giải thì anh thề, anh sẽ đi theo lãnh giải luôn!

 

Nói xong, chàng cười mỉm chi (nụ cười khó hiểu) rồi bước lên lầu. A ha! Niềm đam mê viết lách chưa bao giờ cạn trong tôi, tôi sẽ làm cho chàng bớt chọc quê tôi, biết đâu đấy, tôi mà dự thi nữa và lỡ …trúng giải nữa thì nhớ giữ lời hứa tháp tùng tôi bay qua Mỹ lãnh giải nhé!

 

Cứ mơ đi, có ai đánh thuế ước mơ bao giờ!

 

Edmonton, Tháng1/2022

Kim Loan

Ý kiến bạn đọc
10/02/202204:25:18
Khách
Nhà văn Kim Loan có cách hành văn hết sức sinh động, dí dỏm, "tiếu ngạo giang hồ". Đọc xong bài viết trên của KL, tôi cảm thấy như là KL đã viết thay cho tôi cũng như hàng triệu người VNCH của miền nam VN trước 1975. Tôi cũng là một người không những yêu mà còn ngưỡng mộ nước Mỹ. Thuở còn học trung học, đi học thêm tiếng Anh ở Hội Việt Mỹ , 55 Mạc đỉnh Chi, Sài Gòn. Yêu nước Mỹ qua những bài học trong English for Today, yêu cây cầu nổi tiếng Golden Gate Bridge mà GS Lê bá Kông dịch là Cầu Kim Môn. Ngưỡng mộ nước Mỹ qua những thành tựu khoa học kỹ thuật, yêu Apollo 11 đổ bộ lên mặt trăng, mê mẩn xem những hình ảnh triển lãm Apollo 11 ở Hội Việt Mỹ SG,..... Còn rất nhiều nữa, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp của "Ý Kiến Bạn Đọc" này, xin phụ họa thêm với nhà văn KL những kỷ niệm không thể nào quên của tôi.
09/02/202206:06:52
Khách
Cám ơn tác giả Kim Loan. Bải viết rất hay, rất vui, và nhất là gợi lại cho tôi những kỷ niệm ngày xưa: uống sữa Mỹ, ăn bánh mì Mỹ trong trường tiểu học,...Còn sau năm 1975 thì cục xà bông Coast từ Mỹ gởi về... Cám ơn trí nhớ rất tuyệt vời của Kim Loan đã giúp cho tôi nhớ lại những kỷ niệm khi còn ở Việt Nam. Chúc Kim Loan và gia đình luôn được bình an, mạnh khỏe.
09/02/202205:35:42
Khách
Cám ơn Tác Giả Kim Loan rất nhiều! Đọc bài này làm tôi chạnh nhớ lại những kỷ niệm xa xưa. Hồi còn nhỏ, khi đi học cũng được ăn bánh mì và uống sữa Mỹ, và các loại đồ hộp B1, B2, B3 như KL. Thật là hạnh phúc quá phải không?
Còn phần thứ hai của bài này, cũng có tôi luôn...., nhưng tôi cũng đã phải cố gắng vượt qua tất cả những lời dèm pha, và rồi trời thương, tôi cũng đã được những phần thưởng VVNM hiếm quý ấy!
Liked: "- Dĩ nhiên là vẫn còn, anh...đợi đấy...!"
Ptkd
08/02/202222:12:43
Khách
Đọc bài viết này của Kim Loan làm tôi nhớ lại những kỷ niệm xa xưa trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 ở Sàigòn. Hồi nhỏ tôi cũng được phát một ly sữa lớn và một ổ bánh mì đến nỗi ngán luôn mà trốn không được, bắt buộc phải uống hết. Đồ hộp dành cho lính Mỹ thì loại nào cũng ngon hết những thích nhất là hộp bánh bông lan có mùi quế ăn rất ngon có tên là B3 in trên nắp hộp. Còn mỗi lần đi lãnh đồ của bà Dì bên Canada gởi về thì thơm lừng cả thùng đồ bên trong. Cũng như mọi người khác, tôi cũng học Anh văn chờ chuyến đi vượt biên mà tới chín lần mới thoát khỏi chế độ cộng sản. Những kỷ niệm này không bao giờ phai mờ trong ký ức. Bài viết nào của Kim Loan cũng hay hết giống như 66 bài viết khác của Kim Loan đăng trên báo Trẻ Online theo cái link sau đây: https://baotreonline.com/author/kim-loan
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 538,683
Tháng 4 luôn nhắc nhớ, chúng ta từ đâu đến đây, chúng ta may mắn hơn người còn ở lại VN, hạnh phúc hơn người bỏ xác trên biển, hãy sống xứng đáng với cái giá chúng ta phải trả mới có ngày hôm nay. Hãy tôn trọng và nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình chúng ta, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI đã đón nhận và giúp đỡ chúng ta, nơi đây là điểm dừng cuối đời của chúng ta và là Quê Hương thật sự của con cháu chúng ta.
Nhập ngũ vào Thủ Đức sau biến cố Mậu Thân 1968 khi đang theo học năm thứ hai Cao Học Sử Địa tại Văn Khoa Saigon, anh được chọn vào Không Quân, và có lẽ do bản chất yêu thích văn nghệ với sở trường ca hát và đờn địch, anh vào làm việc trong ban Tâm Lý Chiến của Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa, đi từ cấp bậc Chuẩn Úy cho đến Đại Úy. Đầu năm 1975, anh lấy vợ, một nữ quân nhân phục vụ trong phòng Xã Hội cũng tại sư đoàn 3 Không Quân. Vợ chồng anh ở trong trại sĩ quan của đơn vị cho đến ngày mất nước. Khi anh vào tù, chị trở về quê sống với cha mẹ chị gần Cần Thơ.
Phải nhìn nhận rằng Lão là con người hiền lành, rất hiền lành! Nói theo kiểu người mình hay nói là hiền như cục đất! Lão hiền từ trong nhà ra tới ngoài đường. Chưa bao giờ lão lớn tiếng, hay nói những lời nóng nảy, cộc cằn với bất cứ ai! Cái tâm lão cũng vô cùng là hiền, hiền cả với cây cỏ, với thú vật! Lân la ngoài vườn nhiều khi thấy ớt con hoặc é quế mọc nhiều quá, mụ vợ nhổ quăng bớt. Nếu thấy được lão nhặt chúng đem đi chỗ khác trồng! Mụ kền rền, lão bảo: “Chúng nó cũng muốn sống mà!” Bất cứ con bọ nào bất chợt lọt vào trong nhà là lão túm lấy mở cửa quăng ra ngoài, vừa quăng lão vừa nói: - Đi về nhà mày đi, ở đây lâu là có cơ hội xuống ống cống đấy! Ý lão ám chỉ mụ! Mụ ghét nhất bất cứ con gì chui vào nhà, trông thấy là mụ quăng ngay vào bồn cầu, giật nước mất tích luôn!
Hôm nay trời trong, nắng vàng rực rỡ nhưng lạnh. Hàn thử biểu cho thấy buổi sáng 47độ và trưa được 54 độ F. Vào buổi chiều 16 giờ khí tượng cho biết sẽ có mưa. Từ hôm qua các con đã khuyến khích tôi đi xem hoa đào vì sợ sau cơn mưa, phần lớn hoa sẽ rơi rụng, tơi tả không còn đẹp nữa. Qua video người bạn gửi cho xem thấy hoa đào ở Tidal Basin thủ đô Hoa Thinh Đốn đã nở rộ.
Với Hai Búng thì có nhiều chuyện để nói. Tên trên giấy tờ là Phạm Bình Nhâm, nhưng từ khi vào quân đội, ban bè cùng khóa đặt cho hắn cái tên mới là Búng - Hai Búng. Sở dĩ hắn mang cái biệt danh (nickname) này vì nhà hắn gần chợ Búng mà khi nhắc đến chợ Búng, hắn say sưa nói miết - quên thôi! Hắn tả cảnh, tả tình về quê hương của hắn với những vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, An Sơn, Bình Nhâm (nơi sinh quán của hắn) hấp dẫn đến mức mà người nghe thấy mát rượi với những cây chôm chôm, măng cụt, sầu riêng... ngát hương vườn lài, thơm phức mùi sầu riêng và ngọt lịm mùi lò đường, ruộng mía ven sông …Và bao gìờ kết thúc câu chuyện cũng là lời mời rất chân tình: “Khi nào đi qua Chợ Búng, nhớ ghé nhà tao, tao sẽ đưa tụi mày đi ăn bánh bèo bì Mỹ Liên, hay Ngọc Hương, hai tiệm bánh bèo bì nổi tiếng không những ở chợ Búng mà khắp nước đấy. Rồi về nhà tao, mẹ tao sẽ đãi một bữa cháo vịt – thịt vịt bầu mà chấm nuớc mắm gừng do mẹ tao pha chế thì hết sẩy – Tụi mày sẽ nhớ đời …”
Hồi tôi ở trại tỵ nạn, trầy trật bốn năm trời mới vượt qua cuộc thanh lọc đáng ghét, và khi gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn thì bị từ chối, mặc dù tôi có đầy đủ gia đình ở bển. Còn chồng tôi, cả giòng họ rủ nhau đi vượt biên rất sớm, năm 1977 khi cả miền Nam đang vào cơn tàn tạ dưới bàn tay của “bên thắng cuộc”. Trong khi ở trại Mã Lai chờ phái đoàn Mỹ, thì phái đoàn Canada lơn tơn xuất hiện, gia đình chồng tôi nôn nóng thoát khỏi cuộc sống tù túng ở trại nên nhắm mắt đưa chân qua Canada định cư luôn một lèo. Sau đó, chồng tôi đi học, vào cấp ba rồi Đại Học, quyết chí thực hiện giấc mơ Mỹ Quốc năm xưa, bèn nộp vào trường Đại Học tại New York. Khi nộp đơn thì hào hứng, đến khi được nhận thì bị bà má chồng “bàn ra”, vì sợ tốn kém với số “student loan” quá lớn, chồng tôi cũng bị nản chí, không qua đó học nữa.
Thời gian gần đây, tôi đọc được bài ký sự sống động đã cho tôi một bài học trân quý về nền giáo dục của Hoa Kỳ từ tác giả Hạ Vũ, với câu chuyện “Tôi làm Cô giáo nhà trẻ Mỹ” trên mục VVNM trang Việt Báo. Tác giả kể chi tiết từng hoạt động và phương pháp chăm sóc trẻ nhỏ tại lớp học. Từ việc chuẩn bị môi trường sạch sẽ, an toàn và cách cho trẻ ăn uống, vệ sinh đến giấc ngủ trưa yên lành; ngay cả việc vệ sinh cho bé cũng phải hết sức kiên nhẫn và luôn dùng chữ “please” để khởi đầu và cho biết mình sắp làm gì đó cho trẻ, chữ “thank you” để cảm ơn trẻ đã cộng tác, dù việc đó là phục vụ cho chính các em.
Trong 53 năm, chúng tôi kề cận, nhường nhịn, yêu thương và chăm sóc nhau để cùng xây dựng cuộc sống riêng sau khi cả hai chúng tôi học xong đại học. Chúng tôi đã có một gia đình nhỏ an vui với hai con trai. Và từ khi chúng tôi đem hai cô con gái nhà người dưng, mang về làm hai con gái ruột nhà mình thì gia đình chúng tôi có thêm ba đứa cháu. Nay, các con đã thành nhân, các cháu thì đã có đứa chuẩn bị vào đại học. Hai con trai của chúng tôi đã có nghề nghiệp vững vàng, chúng đã có nhà riêng. Chúng tôi già dặn hơn cùng với sự trưởng thành của con cháu. Hai chúng tôi đã về hưu, vẫn cùng có nhau, tiếp tục nhường nhịn, chăm lo cho nhau trong những năm tháng cuối đời...
Dallas mới qua một đợt lạnh khủng hoảng sau lễ tình yêu, nghỉ học nghỉ làm tuyết đá đầy đường. Hy vọng là đợt lạnh cuối mùa vì thời tiết Texas khó đoán bởi đôi khi sang tháng tư còn tuyết. Tội nghiệp những người thích trồng, họ thường gieo hạt giống trong garage từ cuối tháng hai để sang tháng ba là đậu bắp đã cao được gang tay, cà chua non nhìn mắc ham, những cây ớt xanh mát mắt... Đợi tháng ba cho ra vườn là sớm có ăn, nhưng đầu tháng tư trời lại đổ cho trận tuyết làm cây con chết ráo. Những người mê trồng tính khôn ăn sớm nên gieo hạt trong garage từ cuối tháng hai lại hoá ra ăn muộn vì phải gieo hạt lại lần nữa.
Các nhà khoa học có thể đưa ra tuổi thọ trung bình của một người, nhưng chưa có một thống kê nào cho biết mỗi người từ khi sinh ra cho đến khi nằm xuống đã ở được khoảng bao nhiêu căn nhà! Điều này có thể nói lên mỗi người có những nhu cầu “xê dịch” rất khác nhau. Sau hiệp định Genève 1954, cuộc sống của người Việt Quốc Gia chỉ trong phạm vi từ vĩ tuyến 17 cho đến Mũi Cà Mau. Nhưng kể từ năm 1975 cho đến nay thì “nhà Việt Nam” đã có mặt tại hơn 130 quốc gia trên thế giới. Mỗi một căn nhà của người Việt trên quê người gói ghém tất cả những thăng trầm của một đời lưu lạc nơi đất khách; là những vinh nhục, được mất, hy sinh, đánh đổi để tồn tại. Biết bao người bôn ba ra hải ngoại đang sống trong những căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi; nhưng từ trong sâu thẳm họ vẫn không quên được căn nhà cũ của mình trên quê mẹ!
Nhạc sĩ Cung Tiến