Hôm nay,  

Bông Hồng Cho Bà Nội

25/08/202300:00:00(Xem: 4221)
     
364178933_229762980029229_7133912708066426086_n
Bà Nội (hình tác giả cung cấp).
Ngọc Anh là tác giả Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên. Sau vụ khủng bố tấn công làm nổ tháp đôi ở New York, cô viết bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể chuyện sở làm, một công ty chủ nhân người Ả Rập Hồi Giáo, nhưng hàng trăm nhân viên đủ gốc Á Âu, Do Thái... sống với nhau hoà thuận. Bài viết được trao tặng giải thưởng danh dự năm 2002. Sau đây là bài mới viết của Ngọc Anh, dành cho mùa lễ Vu Lan đang tới.
 
*
 
Ba tôi qua đời năm Mậu Thân 1968, còn trẻ lắm, em Út thứ 9 trong nhà nói: “em không nhớ mặt Ba”, tội nghiệp, lúc đó nó mới có ba tuổi; Má tôi vừa bỏ chúng tôi đầu xuân năm 2023, thượng thọ gần bách tuế. Từ thuở nhỏ, chúng tôi lớn lên không có Ông Bà cả hai bên Nội, Ngoại.

Ông Bà Ngoại với con cái sống cuộc đời thương hồ, trôi nổi nước lớn nước ròng, buôn bán theo mùa ở Châu Đốc. Rồi Ông Bà lần lượt qua đời khi tuổi không thọ lắm. Má tôi có chồng, thì Má chồng đã mất, Ba chồng bồng ẳm hai cháu Nội mới chập chửng biết đi được vài lần thì gia đình tôi dọn nhà lên Sài Gòn.

Rồi ông Nội qua đời. Nghe Ba và Cô Hai kể, Ông Nội nằm đọc báo ngủ trưa, ngủ luôn giấc ngàn thu, rời hơi thở nhẹ tênh, nhà quê gọi là đứt mạch máu. Năm đó, Ông vừa qua tuổi 50. Má kể, tôi cũng được Ông Nội bồng vài lần lúc mấy tháng,

Thỉnh thoảng nghe mấy đứa bạn học kể về quê chơi hè, ở nhà ông Nội… Bà Ngoại…trong lòng tôi cũng ao ước mình có Ông Bà, bên Nội hay bên Ngoại cũng được, để gọi tiếng Bà ơi, Ngoại ơi.

Bây giờ tôi được lên chức Bà Nội, Bà Ngoại, nghe cháu nói “Ngoại ơi, con thương Bà Ngoại”, cảm động tới muốn khóc.
 
À, tôi quên rồi, tôi có Ông Nội Bà Nội đó nhe, nhưng đó là Ông Bà bên chồng, và tôi gọi bằng tiếng Mỹ: Grandma, Grandfa.

Lúc gia đình nhỏ chúng tôi tới thăm Ông Bà, cả hai còn khoẻ mạnh lắm. Ông tự làm chủ và làm công một sân chơi đánh gôn nhỏ, dành cho những gia đình có con nít, tới giải trí cho vui. Sân gôn có những núi non, hang động nhỏ xíu dễ thương lắm, có đường lối quanh co, trang hoàng sơn xanh xanh đỏ đỏ coi vui mắt, cho con nít đánh những trái banh nhỏ xíu, nhắm sao cho lọt vào cái lỗ cũng nhỏ tí là reo mừng. Lợi tức đủ cho hai Ông Bà sống an nhàn. Bà làm ở trung tâm Sears, và đã về hưu. Mùa đông lạnh lẻo, tuyết rơi, ông đóng cửa sân gôn, cùng vài người bạn đi săn, ông còn tráng kiện lắm ở số tuổi trên bảy mươi.

Thời gian chúng tôi tới thăm Ông Bà, là dịp lễ Tạ Ơn. Mùa này thời tiết đã nhuốm lạnh, nhưng trong ngôi nhà của Ông Bà thật ấm cúng; và mùi thơm va-ni, mùi hương quế của bánh nướng, mùi thịt đúc lò thơm hương hành hương tỏi tràn ngập cả ngôi nhà nhỏ, ngay từ lúc chúng tôi xách va-ly bước vào nhà Ông Bà.

Những ngày đầu, tôi thích quanh quẩn ở sân sau nhà Bà để làm quen cây cối, và cái sân nhỏ Bà trồng rất nhiều bông hồng men theo hàng rào, thơm lắm.

Trong góc sân, tôi thấy cái gò đất nhỏ, có cây thánh giá sơn trắng, tò mò tôi hỏi thì Bà cho biết đó là nơi yên nghỉ của con chó yêu quý của Bà, đã sống hết đời với gia đình. Ngộ ghê, nhìn Bà vuốt ve bảng tên trên cái mã, nói chuyện thì thầm với nó, tôi tự nghĩ chú chó thiệt là có phước, qua đời rồi vẫn được Bà yêu thương y như lúc còn sống. Hồi xưa, nhà tôi cũng có một con chó, khôn hết biết; buổi trưa Má tôi thường đóng cửa ngủ, nên kêu con chó con mèo vô nhà; con mèo còn õng ẹo qua lại thì chú nhảy tới, ngoạm nhẹ lớp da cổ, tha tiểu thơ vô trong cửa rồi nhả ra, khôn chưa. Ngày nào cũng vậy. Khi chúng tôi chạy giặc cộng năm 75, không biết tụi nó ra sao?  Góc kia là cây mơ gốc gồ ghề, cành nhánh lớn rộng xoè ra như cái tán dù, Bà nói cây già theo Bà, nhưng hằng năm vẫn đầy trái, Bà hái làm mứt dùng cho những bữa ăn sáng.

Lúc đó, chúng tôi còn rất trẻ, mới có đứa con trai đầu lòng chập chửng tập đi. Lạ nhà, ban đêm con khóc dữ lắm, dù Bà Cố đã chu đáo mượn cái giường con nít của gia đình nào đó ở nhà thờ, để trong phòng cho cháu ngủ nó cũng không ngủ được. Nửa đêm thằng nhỏ cứ khóc dỗ không được, Bà Cố qua ẵm cháu về phòng Bà, và ngồi ru cho tới khi nó ngủ.

Bà làm như vậy mỗi đêm vì cháu quen hơi Bà rồi nên ngủ được. Chúng tôi ái ngại nhưng Bà cứ ôm cháu đem về phòng Bà mỗi đêm. Con trai lớn lên không nhớ gì hết, nhưng tôi thì không quên. 

Vậy mà sáng sớm hôm sau, thằng nhỏ còn ngủ say trong giường, căn bếp nhà Bà đã thơm lừng mùi thịt ba rọi muối chiên giòn (bacon), hay mùi xúc xích thơm mật ong và vỉ trứng gà để sẵn trên bếp, ai thức thì Bà bắt ngồi vào bàn ăn, Bà chiên trứng nướng bánh mì, không cho đứa nào đụng tới cái bếp của Bà. Thói quen giáo dục từ nhỏ, con gái thì phải vô bếp, nên tôi không ngồi vô bàn mà cứ đứng sớ rớ bên cạnh Bà, thì Bà nói: con giúp Bà rót nước trà đá vô ly cho mọi người. Vậy là tôi có việc để làm mỗi buổi ăn mấy ngày sau đó, ngoài việc cho con bú sữa.

Ông Bà Nội chồng gốc gác người Do Thái, qua Mỹ sinh sống từ trước thế chiến thứ nhứt. Người Do Thái họ có chung cái mũi cao hơi gãy. Khởi thủy, Cha Mẹ của Bà làm nghề nấu ăn, cho nên Bà học được cách nấu nhiều món ăn rất ngon. Khi rảnh rang chuyện bếp núc, Bà thường kêu tôi tới gần rồi lục mấy cuốn album gia đình cho tôi coi hình ảnh xưa, toàn hình đen trắng, nhỏ và mờ nhạt, những người thân hai bên Nội Ngoại của Ông Bà. Hình đám cưới Ông Bà, lúc đó Bà mới 16 tuổi, bận áo đầm kết ren dài chấm đất, rất xinh đẹp, và Ông 17 tuổi. Nhìn hình, tôi thấy giống y chang hình ảnh trong mấy phim Mỹ xưa đã từng coi hồi nhỏ ở Sài Gòn.

364139932_303547165571213_7554722989747065332_n
Cuốn sách nấu ăn
Những lúc Bà nấu ăn, tôi luôn quanh quẩn bên Bà, cho nên khi Bà làm gì, Bà cũng luôn miệng dạy tôi, y chang Má tôi lúc chúng tôi còn nhỏ. Tuy Bà không cho làm, nhưng tôi ghi nhớ trong đầu.

Bà nấu ăn ngon, hầu hết món nào tôi cũng thích vì Ba nêm nếm gia vị rất đậm đà, ngọt thì ngọt lừ như chè, đó là món bắp hầm kem ngon lắm; mặc dù nó ăn kèm với thịt gà tây nướng.  Bà dạy, con dùng bắp hộp hiệu này… mới ngon, cứ hai lon bắp thì con cho nửa chén đường với một muổng cà-phê muối cho nó đậm đà. Nhớ nhe con, đừng có đổ nửa chén muối với một muổng cà phê đường thì...đổ bỏ. Nói xong bà cuời nắc nẻ.

Món sà-lách khoai tây có vị chua không thua me, nhắc là muốn chảy nước miếng vì Bà vắt nhiều chanh tươi kèm mù-tạt, thêm củ hành sống cắt vụn, dưa chuột muối chua, rồi trứng luộc và sốt trắng trộn vào, vừa thơm nồng vừa cay cay lại béo nữa. Bà còn rắc bột ớt đỏ lên mặt thố sà-lách, nhìn bắt mắt. Ai nói đồ ăn Mỹ lạt lẽo, sai rồi, phải bàn tay nội trợ truyền thống như Bà làm ra, món ăn nhớ đời. 

Con gà nướng vàng rôm lấy ra khỏi lò, Bà xẻ thịt tươm tất, phần thịt trắng, phần thịt nâu, phần cánh, phần đùi, rõ ràng đủ sắc màu đậm lợt, ai thích ăn phần nào lấy phần đó. Nước sốt chan thịt, bà nấu với cổ gà tây cùng nhiều mề, tim, và gan gà cắt vụn nên rất ngọt dù Bà nêm nếm không dùng bột ngọt hay đường. 

Ngoài con gà tây đúc lò có lớp da nâu vàng, còn có những món ăn kèm theo như khoai tây nghiền nát trộn bơ, đậu xanh (peas) trộn sốt trắng, thêm cà chua đo đỏ cho có màu đẹp mắt, Bà rắc chút phô mai lên mặt, củ dền đỏ hầm có vị ngọt đậm, đậu que luộc xanh tươi vừa chín.

Bà còn dùng mấy ngăn tủ bếp, là chỗ mình đựng nồi chảo, có hai ngăn, để chứa cả chục cái bánh pies đủ loại butter milk pies, pecan pies, coconut pineable pies, chocolate pies, mở tủ ra thơm phức như cái tủ gạc-măng-giê của mình hồi xưa. Thiệt tình tôi chưa thấy người Mỹ nào đựng đồ ăn trong tủ chén như bà, sao mà gần gũi người Việt Nam quá trời. Một tay Bà làm hết thức ăn, con cháu chỉ phụ dọn bàn ghế, sắp chén dĩa, rót trà đá.

Bà mua một lần chục trái dưa (catalope), dú trong tủ chén cho chín, mở tủ ra thơm lắm. Bữa ăn nào cũng có một dĩa dưa dòn ngọt thơm tho ướp l ạnh, ăn từ bữa điểm tâm, bữa trưa, bữa tối.

Bà dạy, món nào cũng rắc chút bột ớt lên mặt, cho có màu đo đỏ đẹp mắt. Món gà chiên của Bà ngon hơn gà mua ở Kentucky Fried Chicken, nói thiệt đó, dù Bà luôn nói Bà làm không bằng nhà hàng đâu. Khi luộc khoai tây để làm món salad, Bà dạy, con gọt bỏ vỏ, rồi cắt từng miếng luộc mau chín mà chín đều, món này tôi học từ Bà, vẫn làm cho tới bây giờ, và dĩ nhiên, tôi luôn rắc chút bột ớt đỏ trên mặt thau sà-lách khoai tây cũng như vài món ăn khác.
Rửa chén xong sau khi ăn, Bà cũng dùng miếng khăn vải rửa chén đó lau chùi bếp thật sạch sẽ, rồi vắt khô đem phơi.

Ba ngày lễ qua, Ông mở cửa sân gôn đi làm trở lại, tôi thấy Bà chăm sóc cho Ông ra sao. Mỗi ngày, vào buổi sáng bà dậy rất sớm, nấu bột ngũ cốc không nêm muối, cho ông ăn với trứng chiên lòng đào. Buổi trưa, Bà làm đồ ăn trưa, hai phần, đem tận chỗ làm cho Ông và người bạn già của Ông, cùng làm việc chung. Bà ngồi đợi ông ăn, trò chuyện với Ông nhỏ nhẹ, sau đó thu dọn đem về. Những món ăn trưa cho Ông, Bà để trong cái giỏ mây có quai xách rất ngộ, đậy kín giữ ấm bằng khăn dày, sọc ca-rô trắng đỏ, nhìn Bà như Bà nhà quê, dù Bà lái xe hơi còn ngon lành. Tôi theo Bà mấy bữa, rất thích. Bây giờ tôi cũng mua những miếng khăn ăn lót bàn, lót dĩa có sọc ca-rô hai màu đỏ- trắng, tôi nhớ Bà.
 
Chúng tôi ở chơi với Ông Bà hơn một tuần lễ. Trước ngày cuối cùng, Bà mới đưa chúng tôi đi thăm khu mộ thành phố, nơi người nhà chôn ở đó. Trong dòng họ có nhiều người hy sinh trong hai trận thế chiến. Từng ngôi mộ, Bà dừng lại, giải thích, có mộ người qua đời rất trẻ, chết trong thế chiến thứ nhứt, những ngôi mộ khác, thế chiến thứ hai… những mồ mả rất cũ kỹ, mốc rêu xanh. Rất tiếc lúc đó tôi không có máy chụp hình, nên có rất ít hình ảnh kỷ niệm chuyến đi này.

Bà nói: các con hưởng lễ trước, ăn uống vui chơi cái đã, thăm viếng người đã qua đời sau. Quan niệm sống của Bà thật hồn nhiên, vui trước buồn sau.
Trước khi về, tôi đo vóc người Bà, nói sẽ may tặng Bà một cái áo.

Khi tiễn chúng tôi về, Bà nhét vô túi tôi một ít tiền mặt, nói cho Bà phụ tiền xăng tụi con lái xe quá xa thăm Ông Bà. Từ chối cách mấy cũng không được. Bà để ý từng chút như Bà Mẹ quê.

Còn nhớ, lúc tôi ngồi cho con bú sữa, Bà ngồi gần đó, cho tôi coi mấy tờ giấy viết tay bà ghi trong đó tên họ, ngày sanh của từng đứa cháu. Bà nói, năm nay Bà sẽ cho quà sinh nhựt mỗi đứa 20 đồng. Y như lời Bà nói, mỗi năm gia đình tôi đều nhận được những thiệp chúc sinh nhựt, trong thiệp kèm theo một số tiền nhỏ và lời Bà dặn, tiền này con mua cái áo đầm, hay đôi giày con thích nhe, hay mua gì…gì đó, Bà nghĩ ra và viết vào như phần quà tặng từ Bà. Chúng tôi làm theo lời Bà rồi gởi hình cho Bà coi, vui lắm.

Bà cũng gởi tôi tấm hình Bà mặc chiếc áo choàng ngủ tôi may cho Bà, nói ấm lắm. Trong hình, dáng Bà nhỏ nhắn như một bà Việt Nam, mái tóc bạc trắng, miệng cười chúm chím và sắc mặt hồng hào.

Mỗi khi vợ chồng có chuyện gây gổ, chồng tôi chỉ gọi cho Bà, tâm sự, xin ý kiến giải hòa, Bà luôn nói: Ông Bà sống với nhau bằng tình yêu, từ trẻ tới già nè, qua bao thăng trầm, gây gổ, vẫn còn bên nhau, tận hôm nay Ông Bà vẫn còn có chuyện bất đồng ý kiến nè, đâu có sao.

Bà là linh hồn của con cháu, tình yêu thương của Bà sáng ngời, Bà nuôi con, nuôi luôn mấy đứa cháu Nội khi cần tới tay Bà.

Khi tôi sanh con đầu lòng, cái thai quá lớn, bác sĩ bắt phải giải phẩu, chồng tôi cuống quít lo sợ gọi cho Bà, hỏi có nên cho vợ con mổ lấy em bé ra không? Bà la phải cho phép ngay, sao còn hỏi Bà, nguy hiểm lắm. Tôi sanh con trai khoẻ mạnh.

Hai Ông Bà làm đám cưới bạc, rồi đám cưới vàng, những tấm hình gởi tặng con cháu thấy Bà tươi tắn bên Ông.

Ông đã qua đời, trong một chuyến đi săn cùng bạn bè trong rừng núi ở tuổi 78. Bà cũng mất sau đó 20 năm. Bà thọ gần bách tuế, như Má chúng tôi. Tôi không còn Ông Bà nào khác, ngoài Bà nên nghe tin Bà mất tôi buồn lắm! Xa xôi quá, bận công việc nên chỉ có chồng tôi về đưa tang Bà, nhưng tôi nhớ lời Bà nói: các con cứ sống vui trước đi, chuyện buồn để sau. Khi Bà mất, chúng tôi được thừa hưởng tấm tranh chân dung Bà, do Ba chồng tôi vẽ, và cuốn sách dạy nấu ăn quý giá của Bà, “Cooking in Rochester for 75 Years”. Cuốn sách này người nhà viết tay từ thế kỷ trước, năm 1968 mới gom lại in thành sách, tới nay hơn trăm năm.

*

Ai nói phụ nữ Mỹ không chung thủy, không biết chăm sóc gia đình, ưa ly dị…Bà tôi không như vậy, Bà là mẫu phụ nữ rất tốt, điển hình thời nước Mỹ còn thô sơ, săn bắn và cỡi ngựa. Nhờ Bà mà tôi biết làm những món ăn truyền thống của người Mỹ có từ thời lập quốc, lưu truyền cho con cháu, dù có pha hai dòng máu Mỹ- Việt vẫn còn cái gốc bản xứ thiêng liêng để tôi dạy lại cho con cháu tôi trong những dịp Lễ, Tết.

Nếu Ông có phòng trưng bày những gạc hưu nai, đầu thú rừng Ông săn được thì góc bếp của Bà trưng đầy những keo, lọ, hũ… lũ khũ chứa bánh trái, mứt đủ màu sắc xanh cam vàng đỏ tự tay Bà làm. Con cháu tới thăm đứa nào cũng có phần đem về. 
 
Gần gũi Bà, tôi học được bao nhiêu điều…

Bà dạy tôi lòng thương yêu và chia sẻ khi Bà nói làm bánh luôn luôn hai phần, cho gia đình và tặng chòm xóm láng giềng.

Bà dạy tôi nhẫn và nhịn trong đời sống hôn nhân.

Bà dạy tôi lòng biết ơn người phối ngẫu đã cho tôi mái nhà che mưa nắng qua những lá thơ Bà gởi cho chúng tôi, nét chữ bay bướm có lời cuối luôn luôn ghi cám ơn Phil (tên Ông Nội).

Và nhứt là Bà dạy tôi làm những món ăn ngon cho gia đình, những dịp Lễ, Tết ở nơi tôi đã chọn làm quê hương thứ hai, nơi con cháu tôi lớn lên.

Nếu có dịp viếng mộ Bà, tôi sẽ tặng Bà những bông hồng đỏ thắm như hàng bông Bà trồng trong sân nhà Bà.

Tôi thương Bà lắm, Grandma

Trương Ngọc Anh
 
*Bách tuế (dt): Trăm tuổi, có câu Nhân sinh bách tuế vi kỳ (con người sống ở đời trăm năm là đúng hạn)
*Đám cưới bạc, kỷ niệm ngày cưới 25 năm; đám cưới vàng, kỷ niệm ngày cưới 50 năm, theo phong tục Tây Phương.
*Đính kèm hình Bà Nội và cuốn sách nấu ăn  
 
 

Ý kiến bạn đọc
30/08/202323:05:21
Khách
Bài viết rất hay mà bài nhận xét cũng hay và lịch sự nữa.
30/08/202303:18:36
Khách
Misspelling: Catalope.
Cantaloupe is the correct spelling.

Americans usually call their grandfather as granddad or grandpa.

Bài viết rất hay. Bà nội Mỹ hiền lành, bao dung, rộng lượng, đầy tình thương cho con cháu.

Ba má tôi cũng thích món potato salad. Mới nhìn tưởng ai cũng có thể làm được, nhưng làm ngon lại là một chuyện khác. Gần nơi tôi ở có một chợ Mỹ bán potato salad rất ngon. Trong 48 năm, gần 49 năm ở Mỹ, tôi từng ăn potato salad từ rất nhiều nơi, nhưng chợ gần nhà tôi bán món đó ngon nhứt, nên tôi hay mua ở đó. Nhưng bỗng nhiên vào một ngày khoảng gần hai năm trước đây, potato salad ở đó không còn ngon nữa, không dở, nhưng không ngon, chỉ tầm thường. Vài ngày sau đó tôi mới biết được là bà Mỹ làm potato salad ở chợ đó đã về hưu. Người ta mướn một ông Mỹ gốc Việt trung niên vô làm, he has an extremely long way to go. Tôi mua potato salad ở tiệm khác, tuy không bằng của bà cụ đã về hưu, nhưng vẫn ngon hơn của ông Việt.

Một bà Mỹ láng giềng nói với tôi rằng món gia vị đặc biệt làm cho món ăn ngon là tình thương. Bà đó nói đúng. Bà Mỹ đã về hưu ở chợ nơi tôi hay đến là một người rất hiền lành, tử tế, khiêm tốn, luôn luôn rất nhỏ nhẹ ôn hoà. Còn ông Mỹ gốc Việt trung niên sau này thì --- phải nói làm sao cho thật lịch sự đây --- à, thì tạm nói là he has an extremely long way to go.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 606,528
Gia đình Khương An ở giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp thuộc nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế Huế, học cùng lớp, cùng trường Jeanne D’Arc với tôi. Hai vợ chồng họ vượt biên, đến định cư ở Seattle rất sớm. Khương An sinh hoạt trong hội gia đình tổng giáo phận Huế ở Seattle, hội này đa phần là người giáo xứ Phủ Cam nên biết gia đình tôi tới Cali, Khương An gọi điện thoại về Cali nhắc tôi đủ điều
Tác giả Thanh Mai là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến. Mừng tác giả viết trở lại, bài viết mới dí dỏm, vừa tếu lâm vừa ngậm ngùi.
Tôi đọc nhiều chuyện kể về sự cam chịu số phận hẩm hiu của các nàng dâu, sự ti tiện của các chàng rể và sự cay độc của những bà mẹ chồng trong thời phong kiến, tôi cảm thấy ray rứt… Khi được sống trong xã hội văn minh, kinh tế phát triển, tưởng rằng: dâu, rể không còn là vấn đề phải ray rứt ngậm ngùi! Thế nhưng có nhiều điều cười ra nước mắt – nói hoài vẫn còn chuyện để kể bà con nghe chơi!
Tuy nói ngoài miệng như vậy, nhưng trong đầu tôi lúc đó cứ suy nghĩ miếc về sự khác biệt giữa xe đạp nam và xe đạp nữ. Hồi tôi còn ở Việt Nam làm gì có phân biệt xe đạp của nam hay của nữ. Ở cái xứ này sanh ra đủ thứ chuyện. Giống y như câu người xưa thường nói: "Phú quý sinh lễ nghĩa" rồi đẻ ra, phân biệt của nam của nữ cho bán được nhiều xe hơn...
Mẹ tôi hầu như lép vế, im tiếng trước, khi bố bắt đầu quát tháo. Tôi không hiểu sao ông dễ nổi nóng. Về mặt thể chất, hai người trái ngược nhau; mẹ tôi mỏng- manh; bố tôi vạm vỡ. Có lần ông quát to và giơ tay lên như sắp táng vào mặt mẹ tôi; mới tám tuổi, mà không biết sức gì thúc đầy tôi lao vào đứng giữa hai người, che chở cho mẹ.
Chị ngồi miết ngoài hàng hiên tới trời chạng vạng, không màng ăn cơm chiều khi đã nhìn ra quê cũ sau bao năm xa cách, không còn ai tin ai ngoài chính mình, không còn ai thương ai ngoài chính mình, không còn ai muốn giúp ai ngoài chính mình, không còn ai cho ai cơ hội ngoài chính mình… Chị trở thành người không giống ai trong gia đình, ngoài cánh cổng nhà chị cũng không giống những người quen xưa cũ, những người không quen nhưng đã chọn quê chị để định cư cũng vậy luôn. Họ đều ném cho chị những cái nhìn khó chịu về hành vi của chị vì không giống họ.
Một buổi chiều cuối mùa đông, nhóm cựu học sinh Đà Nẵng tại Bắc Cali hẹn nhau cùng đi thăm Cô tại nghĩa trang Oak Hill, San Jose California. Thời gian trôi qua thật nhanh. Thấm thoắt đã hai năm Cô rời xa chúng tôi. Trời ngây ngây lạnh, trong cơn gió nhè nhẹ và cái nắng vàng hiu hắt, chúng tôi đứng quây quần quanh ngôi mộ nằm chênh chếch lưng chừng đồi. Nhớ Cô thật nhiều. Nhớ dáng người nhỏ nhắn, nụ cười ấm áp với khuôn mặt thật hiền. Nhớ đến một cô giáo có trái tim vô cùng nhân hậu, một người thầy đáng kính, suốt một đời luôn quên hạnh phúc riêng mình, để sống cho những người bất hạnh, những đứa trẻ bụi đời, lang thang, những bé mồ côi và những người cơ nhỡ. Bạn bè cùng nhau ôn lại những kỷ niệm, một thời trung học, và những ngày tháng trên quê hương thứ hai này. Cùng nhau tưởng nhớ về Cô giáo Đặng Thị Liệu kính yêu của học trò Phan Châu Trinh và Nữ Trung Học Hồng Đức.
Anh chị em con Cindy không có ý kiến gì chuyện nó cặp thằng Matt, riêng ông Định thì không thích ra mặt, ông rất bực bội và không chấp nhận cuộc tình dị chủng. Ông Định vốn là sĩ quan Viẹt Nam Cộng Hòa, sau khi đi tù hơn năm năm thì được thả và đi Mỹ diện HO15. Ông Định sống ở Mỹ cũng ba mươi lăm năm nhưng xem ra khá bảo thủ, không chấp nhận và tiếp nhận cái mới, cái khác. Ông Định chưa từng ra khỏi tiểu bang này, chưa một lần ăn pizza hay hamburger. Khi nghe tin con Cindy cặp thằng Matt thì ông giận lắm. Ông cứ giữ khư khư cái quan niệm lấy Mỹ là đồng nghĩa me Mỹ nhưng thập niêm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước. Thời thế đã thay đổi, xã hội đổi thay, con người cũng khác nhưng ông không thay đổi, hơn nữa chuyện con Cindy với thằng Matt là tình yêu trong sáng, tình yêu thật sự ấy vậy mà ông vẫn không chịu thay đổi cách nhìn cách nghĩ của mình.
Có nhiều bạn học cho là A hay phô trương, nhưng với tôi, A không có vẻ gì như thế. A học giỏi so với bạn cùng lớp vì A đã tốt nghiệp đại học ở Việt Nam và có bằng TOEFL điểm cao nên nói tiếng Anh lưu loát. Thỉnh thoảng bạn ấy được thầy nhờ thông dịch cho các học sinh Việt Nam mới qua, không theo kịp bài giảng tiếng Anh của thầy. Trong lớp, A hay giơ tay hỏi và phát biểu ý kiến của mình khiến vài bạn khó chịu. Họ nói với nhau là A khoe mẽ giỏi tiếng Anh. Giờ nghỉ, A chủ động đi bắt chuyện làm quen với học sinh các lớp khác và những học sinh người nước ngoài.
Rời Cali cả tuần nay rồi mà tâm trí tôi vẫn bềnh bồng với những sinh hoạt ngày Tết trôi qua vội vã – Gần bốn tuần lễ vui chơi ở Orange County, ngày nối tiếp ngày, đêm trôi qua đêm với những náo nức rộn rã như những ngày xưa tuổi nhỏ mỗi lần Tết đến. Tôi thật sự chưa tỉnh thức với chính mình. Cái gì làm tôi u mê đến vậy? Xin đừng hỏi tôi, tôi không trả lời được đâu. Không dấu được nỗi buồn còn đọng lại sau chuyến đi, tôi bỗng giật mình thảng thốt với chính mình. Vui chơi với bè bạn tuổi không còn trẻ nữa tuổi bảy lăm mà cứ tưởng mười lăm nên trận mưa đêm rã rít hiếm có ở Cali làm tôi có chút ngỡ ngàng.
Nhạc sĩ Cung Tiến