Hôm nay,  

Ăn Tết

09/02/202400:00:00(Xem: 2711)
Ăn Tết minh hoạt_Ảnh Mùng Một Tết tòa soạn Việt Báo
Ăn Tết minh hoạt_Ảnh Mùng Một Tết tòa soạn Việt Báo
Mỗi sáng chủ nhật quán cà phê Chợt Nhớ đông nghẹt khách, phần lớn là khách quen thuộc, tuy nhiên tuần này có thêm khách xuyên bang về. Chợt Nhớ là quán có tên tuổi nhất ở vùng này, dân chơi, dân giang hồ, dân cờ bạc, mấy mậu cho vay nặng lãi và tụi khoe mẽ… đều tụ tập về đây. Quán lúc nào cũng ồn ào, rộn ràng. Tivi cả chục cái chuyên về football, chỉ có mỗi cái sau lưng quầy tính tiền là luôn chơi nhạc Bolero nỉ non sướt mướt. Khách uống cà phê hầu như chẳng có ai nghe nhạc hay xem tin tức mà chỉ dán mắt vào tivi coi tỉ số đá banh, tỉ số bóng cà na và cá độ. Tụi thằng Tí Còi, thằng Sơn Lắc, thằng Hùng Nổ, con Lisa, con Yến… là đóng đô thường trực.

    Ở một góc phía sát mặt đường có một nhóm bạn cũng thường ghé quán nhưng không có chơi game hay cá độ. Bọn họ thường tụ tập nói chuyện linh tinh hay đùa giỡn thôi. Sáng nay thằng Duy hỏi thằng Linh:

    – Tết nay mầy có dìa Dziệt Nam ăn tết không?

    – Có, tao đã đặt vé từ trước Thanksgiving.

    – Sướng nha, chuẩn bị hưởng rồi.

    – Dzậy mầy có dzìa không?

    – Tao cũng muốn đi nhưng chưa đi được, chắc có lẽ tết năm sau. Dzìa Việt Nam mùa này tiện lợi đủ đường. Vừa qua lễ Noel hàng hóa đại hạ giá, quần áo, mỹ phẩm, bánh kẹo… giảm tới 85% luôn, tha hồ mua làm quà, chỉ cần bỏ ra vài trăm đô là đủ nhét chặt mấy cái vali. Đi Việt Nam những mùa khác làm gì có đồ giảm giá mà mua.

    Thằng Hưng cận, mắt mũi dí sát cái điện thoại cầm tay hí hoáy quẹt quẹt, nó không nhìn lên nhưng nghe rõ hết, nó cà khịa:

    – Ăn tết là ăn cái giống gì vậy hả? Ở Mẽo này đồ ăn ta, Tàu, Tây, Mễ… ăn muốn lòi bản họng chưa đã sao? Còn bánh mứt truyền thống thì các chợ nhập qua thiếu điều chở đi đổ biển cũng không hết, dzậy mà còn đòi dzìa bển ăn tết.

    Thằng Linh đạp thằng Hưng cận một phát thiếu điều muốn té ngã khỏi ghế:

    – Con bà mầy, bày đặt cà khịa hả? móc họng hả?

    Cả bàn cười sằng sặc, thằng Duy chọt vô:

    – Nó xạo xạo cái miệng chứ tết nào cũng chạy dzìa bển ăn tết ai mà hổng biết.

    Thằng nghĩa nãy giờ xem đội Eagle và đội Dolphin chơi trên sân GA. Mắt nó không rời ti vi nhưng tai nó nghe nên miệng chửi:

    – Mầy thô quá Hưng cận, ăn tết đâu chỉ là món ăn hay ăn uống nhậu nhẹt, ăn còn có ý nghĩa tinh thần nữa, hưởng cái không khí tết, cái văn hóa cổ truyền, thõa mãn cái nghe, thấy, nhìn, cảm nhận… Mầy lúc nào cũng chỉ nghĩ ăn với nhậu không hà.

    Bấy giờ thằng Hưng mới ngưng quẹt điện thoại, vẻ mặt câng câng:

    – Nói thì nói dzậy thôi chứ dzìa bển ăn tết là hưởng, ngu sao hổng hưởng? Đã lắm tụi bay ơi, mang dzìa vài xấp là làm dzua, muốn gì cũng được, mấy em chân dài xinh đẹp chìu hết mình luôn.

    Thằng Hưng nói thiệt tình. Nó đem hình và quà mấy con ghệ từ bên Việt Nam gởi qua, con nào cũng kêu thương kêu nhớ. Hổng biết nó dzìa bển dụ khị tán tỉnh sao  đó làm cho mấy con nhỏ tưởng thiệt nên nuôi mộng lấy Dziệt kiều để được đi Mỹ. Thằng Hưng khôn thấy mẹ luôn, nó bỏ ra tiền thì nó phải được cái gì đời nào nó cho mấy ẻm ăn không. Mà mấy con nhỏ đó cũng khôn thấy bà, sành sõi nước đời, tụi nó cũng rành sáu câu cái mác Dziệt kiều, câu Dziệt kiều để đi Mỹ chứ yêu thương gì! Hai bên đều đang chơi trò cút bắt với nhau thôi chứ chẳng có ai chân tình gì hết ráo. Gần như năm nào thằng Hưng cũng dzìa Việt Nam ăn tết, quê nó ở Thủ Thừa-Long An nhưng có nhà ở Sài Gòn nên về bển hổng lo chỗ ở hay ăn uống, chỉ lo hổng có sức chơi thôi!

    Nghe thằng Hưng nói vậy, cả đám cũng gật gù hưởng ứng, chuyện gì chứ nói chuyện ăn chơi, gái gú ai mà hổng ham. Chợt thằng Linh lái chuyện sang hướng khác, hổng biết nó chọt thằng Hưng hay chỉ là vô tình:

    –  Tao ghét nhất mấy khứa ở ngoài thì hùng hổ dữ dằn nhưng khi dzìa tới hải quan Tân Sơn Nhất thì khúm núm khép nép, kẹp tiền vào passport.
    Thằng Hưng cãi:

    – Bố thí cho cô hồn các đảng năm hay mười đô để tụi nó khỏi làm khó dễ, mình đi qua nhanh hổng sướng sao? Bộ mầy hổng thấy tụi nó cứ câu giờ làm khó những người không kẹp tiền?

    – Mình không làm gì sai thì chẳng sợ ai, cũng vì nhiều người nghĩ và làm như mầy nên tụi nó mới lộng hành nhũng nhiễu.

    Thằng Hưng quạu đeo:

    – Tao đách biết chuyện chính trị. Tao cũng chẳng thèm quan tâm chuyện chính trị. Tao cứ kẹp tiền để  qua cửa hải quan cho lẹ. Mầy ngon thì nói với mấy khứa HO đó. Mấy khứa lão miệng thì nói này nọ nhưng năm nào cũng dzìa bển ăn chơi, cặp kè gái gú bằng tuổi cháu của mấy ổng. Ngày ngày ra quán cà phê, quán nhậu nổ banh nhà lồng luôn. Tao chính mắt thấy mấy khứa kẹp tiền và còn bảo người nhà kẹp tiền vô để tụi hải quan không làm khó.Tao cũng nhắc cho tụi bay biết là tao không có quơ đũa cả nắm nhen, ý tao là có nhiều khứa lão HO mà tao biết tên biết mặt chứ không phải là tất cả, đừng có mà xuyên tạc à nha!

    Trong đám nhà lá lộn xộn này thì Nghĩa là người hiền nhất, ít nói nhất nhưng xem ra cứng cựa nhất. Nghĩa đồng ý với thằng Linh, nó cũng muốn dzìa Việt Nam chơi vì gia đình nó còn ở bển, ngặt cái con vợ Nghĩa không thích Việt Nam nên không chịu đi, còn đi một mình thì con vợ ghen quá trời, mỗi lần nói đến chuyện đi Việt Nam là hai vợ chồng cãi lộn ì xèo, bởi vậy nên Nghĩa ít đi Việt Nam nhất. Lần cuối nó đi Việt Nam một mình cách đây cũng đã năm năm, còn lần đi cả hai vợ chồng thì cách cũng đã mười lăm năm, lần đi ấy đã để lại bài học nhớ đời. Khi Nghĩa về tới Tân Sơn Nhất nó nhất định không chịu kẹp tiền vào passport, thằng nhân viên hải quan lầm lì khó chịu hỏi linh tinh, cả hai cứ ngầm so găng với nhau, cuối cùng thằng nhân viên hải quan thấy không ăn hiếp được bèn đóng mộc cho qua để còn kiếm chác đứa khác. Riêng con Quyên, vợ  Nghĩa thì kẹp mười đô vào passport ấy vậy mà thằng nhân viên hải quan lấy tiền rồi lại làm khó, nó bảo số serial trên visa mờ không hợp lệ bắt phải làm cái khác, thế là con Quyên phải tốn thêm một trăm rưỡi nữa mới qua được cửa khẩu. Cả hai vợ chồng Nghĩa tức muốn hộc máu mà không làm gì được. Về đến Sài Gòn đã hăm tám tết, không còn vé tàu, xe, máy bay gì để về miền Trung. May có người quen móc nối với tụi nhân viên đường sắt, dẫn ra ga sài Gòn và lên phòng riêng của nhân viên toa xe, có điều phải chi gần gấp đôi giá vé chính thức. Tay nhân viên toa xe nhìn thấy va li lỉnh kỉnh biết là Dziệt kiều nên chém đẹp.

    Về ăn tết ở quê vui thật, gặp bạn cũ, người thân, đi viếng mộ ông bà tổ tiên, gặp họ hàng… nhưng cũng mệt lắm, lì xì muốn hụt hơi luôn. Đó là Nghĩa đã hà tiện, đã căn cơ bớt rồi đấy, nếu chơi xả láng lấy le hay chơi nổi như người ta nữa thì có mà sạch túi luôn.

    Đêm giao thừa ở quê ngày xưa thiêng liêng lắm, giờ phút giao thừa tưng bừng pháo nổ, giờ phút giao nhau giữa cũ và mới, giữa con người với đất trời, giữa thế hệ hiện tại với tổ tiên… Nhưng từ khi nhà cầm quyền cấm pháo thì giao thừa trôi qua trong lặng lẽ không ai hay biết.

    Đêm ba mươi tối như hũ nút, Nghĩa lên lầu thắp nhang cúng phật, tưởng nhớ ông bà tổ tiên, lòng nhớ tiếng pháo của một thời bé thơ. Lần hai vợ chồng Nghĩa về ăn tết năm ấy những tưởng có gì thay đổi nhưng tuyệt nhiên chẳng có gì. Đêm ba mươi tối mịt như cái màn đêm phủ chụp xuống, tất cả lặng lẽ chìm đắm trong một màu đen thăm thẳm chẳng thấy một chút le lói nào có thể xuyên qua tấm màn đen ấy. Kể từ bận ấy đến giờ vẫn còn cấm pháo và cấm nhiều thứ khác nữa, giao thừa, ngày tết, mùa xuân... âm thầm qua chẳng ai hay biết. Đêm giao thừa không có tiếng pháo chẳng khác gì cả nước bít bùng trong bốn bức tường sắt tối đen vô cảm.

    Ngày tết ở hải ngoại pháo nổ giàn trời luôn, pháo đốt từ chùa chiền, thương xá, tiệm tùng, nhà hàng, chợ búa, shopping… Người ta thi nhau đốt, đốt để lấy hên, để vui ba ngày tết. Tết hải ngoại nếu rơi vào cuối tuần thì càng vui hơn, tấp nập hơn. Nếu tết mà rơi vào ngày làm trong tuần thì Nghĩa lấy ngày nghỉ để đi chơi tết, lên chùa lễ Phật… Tết ta ở hải ngoại trùng với thời tiết mùa đông, trời lạnh giá ấy vậy mà chị em phụ nữ vẫn mặc những bộ áo dài truyền thống để đi hội chợ xuân. Những tà áo dài đủ kiểu, đủ màu sắc làm cho không khí xuân như tươi hơn, ấm hẳn lên. Mấy năm gần đây thì phong trào áo dài cách tân từ trong nước lan ra hải ngoại. Nhìn những cái áo dài ngắn cũn cỡn, nhỏ xíu trông thật xấu xí và phản cảm. Người mặc áo dài cách tân cứ như mặc áo bính của trẻ em, không vừa với kích thước người lớn. Cách tân kiểu này phá hư nét đẹp áo dài Việt Nam, thế mới biết không phải cứ cái gì mới, cái gì cách tân cũng tốt đâu! Nhiều khi cái cũ, cái xưa ấy vậy mà lại đẹp và hay hơn rất nhiều.

    Người đi chơi tết dường như cũng hưởng được chút không khí tết của quê nhà. Giữa vùng ngoại phương lạnh giá, nhiều nơi còn ngập cả trong tuyết băng. Riêng thành Ất Lăng này thì khí hậu tương đối ôn hòa, tuy là tết ở vào trọng đông nhưng nhiệt độ chỉ lạnh chứ không mấy khi có tuyết, ở đây tuyết cũng chỉ đủ làm duyên chứ không dữ dội như các bang phía bắc. Ngày tết các chùa thoang thoảng hương trầm, đèn nến sáng trưng, đồng hương diện áo dài (dù là áo dài cách tân nhỏ xíu và ngắn cũn cỡn) tự nhiên lòng người cũng thấy vui, thấy như mình đang sống giữa không khí tết cổ truyền.

Nghĩa miên man trong dòng suy tư của mình trong lúc cả đám bạn nhao nhao nói chuyện như pháo nổ. Bất chợt có tiếng la to làm cho mọi người trong quán cà phê dáo dác hướng mắt về chỗ phát ra tiếng la, thì ra thằng Win vừa trúng Jackpot ba con số bảy với số tiền lên đến mười lăm xấp. Thằng Hưng chạy lại chỗ thằng Win vỗ vai chúc mừng nó:

    – May mắn ghê dzậy mầy! Tết này huy hoàng rồi hén!

    Thằng Linh cũng lại gần máy game, nó cười nhếch mép:

    – Từ đây đến tết cũng còn hơn cả tháng nữa, bộ mầy tưởng nó giữ được đến lúc đó sao?

    Thằng Quân ngồi ở máy game kế bên, vẻ mặt không vui không buồn, mắt vẫn dán chặt vào màn hình máy game, miệng nó triết lý:

    – Tiền cờ bạc mà, vô tay này ra tay kia, rút từ máy này rồi đút vô máy khác là chuyện thường! Hồi nào giờ ai thắng Jackpot sớm muộn gì cũng đút lại máy game hết ráo, thậm chí còn lỗ thêm nữa.

    Thằng Linh phản ứng:

    – Lời lỗ gì hổng biết, nhưng lấy được Jackpot thì trước mắt là hên lắm đó. Cả mấy chục thằng cháy túi và phải mấy tháng trời mới có một người lấy được Jackpot. Tao đây cũng thử thời vận hoài, chơi cả chục năm nay nhưng có bao giờ trúng Jackpot đâu, ngay cả mầy nữa, rồi còn nhiều thằng khác cũng thế!

Ngoài quán cà phê Nhớ ra còn có quán Mộng Mơ, quán Dĩ vãng… cũng đầy nhóc máy game. Ly cà phê có mấy đồng sao sống nổi? Mấy quán cà phê Việt sống bằng máy game, cầm cái cá độ đá banh, banh cà na… cá độ quanh năm luôn vì có bao giờ hết game đâu? Ngoài quán cà phê Việt ra, mấy cây xăng của tụi Ấn Độ và chợ của bọn Đại Hàn cũng đặt đầy máy đánh bạc. Những con bạc người Việt thua liểng xiểng, thua cháy túi. Thằng Dũng cũng là bạn của cả nhóm, nó thua nặng đến độ rút hết tiền 401-K mà cũng trả không hết nợ. Năm rồi nó dzìa Việt Nam bán mấy lô đất mà gia đình chia để đem qua trả nợ, nợ tiền cờ bạc của giang hồ không phải chuyện giỡn chơi, chúng xử tới bến. Thằng Anh, con trai của siêu thị Đại Phát cũng cá độ và thua game đến nỗi bán cả nhà và xe vẫn trả không hết nợ, cuối cùng bỏ thành Ất Lăng trốn nợ, tuyệt tích giang hồ luôn. Những người mê cờ bạc, chơi máy game đều là vì lòng tham, muốn bỏ ra chút ít mà thắng nhiều. Tiếc rằng tất cả cuối cùng đều sạch nhẵn túi.  Đã dính vào máy game thì rất khó bỏ, thắng chút ít thì muốn thắng thêm còn thua thì muốn gỡ gạc, vì vậy mà ngồi chơi cho đến khi không còn xu teng nào. Nhiều người sau đó vay của giang hồ để tiếp tục chơi hòng lấy lại những gì đã mất, nào ngờ mất luôn những gì đã có. Nghĩa cũng nhiều lần thử thời vận, có đôi khi thắng nho nhỏ nhưng cuối cùng cũng đút lại vào máy game hết. Cái may (hay bị) là tiền bạc vợ nắm giữ hết cho nên không đến nỗi chơi đến cháy túi. Rất nhiều lần Nghĩa cứ tâm niệm: “Mình có bản lãnh, chỉ chơi cho vui, chơi tài tử chút chút thôi!” nhưng khi đã ngồi vào máy game thì bản lãnh, nghị lực, quyết tâm… gì cũng tiêu tùng hết! Những cái máy game quả là kiếp nạn của không ít người Việt ở thành Ất Lăng này, nó không chỉ làm khổ người chơi mà di họa đến cha mẹ, vợ, chồng, con cái… của người chơi. Có không ít gia đình tan đàn xẻ nghé cũng vì máy game. Đừng tưởng chỉ có đàn ông hay thanh niên mới chơi game. Ở quán cà phê Nhớ này còn có cô Chín đã ngoài 75 tuổi rồi vẫn đóng đô ở đấy. Bà Tư mập đi bán hải sản dạo cho các tiệm nails, có đồng nào cũng nhét hết vào máy game. Nhỏ Hạnh, chủ tiệm Nail, hễ tiệm ế khách là lủi vào quán chơi game...Hầu hết người chơi đều thua, thỉnh thoảng có người lấy được Jackpot. Chính cái thỉnh thoảng này đã gieo vào đầu những người chơi cái hy vọng (chẳng có bao nhiêu phần trăm) mình cũng sẽ thắng jackpot. Sáng nay thằng Win lấy được Jackpot, kể như rất là may mắn, cái tỷ lệ may mắn này nhỏ biết là bao. Cả quán xôn xao vì cái may mắn của thằng Win.
 
***
 
Anh Sam đem ra mười lăm ngàn tiền mặt mới keng chung cho thằng Win, nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ xuýt xoa đầy thèm thuồng mong ước. Anh Sam chung tiền xong nói với mọi người:

    – Giao thừa năm rồi quán Chợt Nhớ có mời ca sĩ Tuấn Vũ từ Cali và ca sĩ Ái Vy ở địa phương đến hát giúp vui, năm nay sẽ mời các ca sĩ sau buổi biểu diễn ở Morrow District về hát cho anh em thưởng thức. Quán bao anh em ăn chơi tới bến luôn. Năm nào quán mình cũng chơi lớn, chơi cho dân chơi không dám khi dễ.

    Anh Sam chơi sang, chơi sộp, chơi xịn thật! Tết năm nào cũng rước ca sĩ về hát và còn đãi ăn nhậu thoải mái, riêng khoản rượu tây mắc tiền thì mọi người mang theo, quán chỉ bao bia bọt và thức ăn. Cả vùng này có nhiều quán cà phê nhưng chỉ có mỗi quán Chợt Nhớ là chơi đẹp như vậy. Cũng có người nói dèm sau lưng anh Sam: “ tiền mướn ca sĩ và bao ăn nhậu cũng từ tiền máy game ra, đâu phải thằng Sam rút tiền túi bao!”, đành rằng là vậy, nhưng những quán khác cũng có máy game nhưng đâu có chơi xịn như vậy, chỉ có mỗi quán Chợt Nhớ của anh Sam mà thôi!

    Trong suốt tuần lễ tết, quán Chợt Nhớ có đủ các trò chơi nào là xì dách, xập xám, tiến lên, đổ xí ngầu, bầu cua cá cọp… Nhiều con bạc khát nước chơi lớn, tiền thắng thua lên đến cả hai chục ngàn. Với Nghĩa và đám bạn của Nghĩa thì chỉ chơi chút chút hoặc là hùn ăn theo với ai đó chứ chẳng có khả năng chơi lớn. Khách ở quán Chợt Nhớ phần lớn là dân làm móng và dân hành nghề tự do ăn tiền mặt, không bị ràng buộc giờ giấc, phép tắc… nên hàng năm cứ sau lễ Thanksgiving là rủ nhau mua vé về Việt Nam ăn tết, ai không đi thì tụ tập ở quán Chợt Nhớ mà sát phạt nhau. Nghĩa không có ý so sánh hay đua đòi, vì Nghĩa biết mỗi người có hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên cứ thấy người ta rộn ràng chuẩn bị về quê ăn tết tự nhiên trong lòng cũng thấy xốn xang.

    Nghĩa ngồi ngẩn ngơ nghĩ về câu thằng Hưng nói lúc nãy: “Ăn tết là ăn cái gì dzậy?” thằng Hưng cà khịa nhưng câu khịa của nó cũng khiến cho lòng thấy mang mang chi lạ.
 
***
 
Nghĩa không dzìa Việt Nam ăn tết nhưng ở vùng hướng nam của thành Ất Lăng này mấy năm nay cũng ăn tết lớn không thua gì Việt Nam. Ông John Lampl làm thị trưởng Morrow hai nhiệm kỳ liên tiếp, có vợ người Việt Nam nên ổng yêu văn hóa và ẩm thực Việt; yêu truyền thống và lễ hội Việt. Ông thị trưởng ủng hộ hết mình cho những hoạt động văn hóa của cộng đồng Việt, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để cộng đồng Việt sinh hoạt. Nghĩa thấy có một sự thay đổi lớn , một sự trưởng thành vượt bậc của cộng đồng Việt ở đây, nào là: tổ chức hội trăng tròn trung thu, hội chợ đêm về ẩm thực, lễ tưởng niệm ngày quốc hận và dĩ nhiên tết nguyên đán là một lễ hội quan trọng nên tổ chức rất lớn, đầy đủ màu sắc và âm thanh của một cái tết Việt. Tết Nguyên đán ở Morrow năm nào cũng có hội chợ xuân, ca múa nhạc, thi áo dài, thi hoa hậu, thi giọng ca karaoke, có hô lô tô, bầu cua cá cọp, có múa lân và dĩ nhiên là pháo nổ giàn trời. Những gian hàng bánh trái và thức ăn truyền thống thì ê hề, phục vụ đắc lực cho nhu cầu ẩm thực của khách du xuân.

    Cứ mỗi sáng mồng một tết âm lịch, Nghĩa luôn luôn lên chùa dâng hương lễ Phật, có năm thì theo đoàn hành hương đi viếng các chùa khác từ nam lên bắc thành Ất Lăng. Ngày hội xuân cả nhà Nghĩa tham gia từ trưa cho đến mãn hội mới về. Nghĩa dắt hai đứa con theo, sắm cho tụi nó bộ áo dài tha thướt, cả hai đứa đều thích thú với trang phục truyền thống này. Cả hai đứa con cũng thích bò bía, gỏi cuốn, phở, bánh mì… và bao  nhiêu món ăn khác.

    Hai vợ chồng Nghĩa cũng diện áo dài truyền thống đúng (dù có cho là cũ, không cách tân), luôn luôn chuẩn bị sẵn bao lì xì để tặng cho những người thân quen hay bạn bè gần gũi. Thật sự thì trong bao lì xì chẳng nhiều nhặn gì, chỉ là tờ hai đô la và vé số Mega. Mùa xuân tặng nhau chút mơ mộng, chút vui nho nhỏ khiến người vui mà mình cũng vui theo. Sở dĩ Nghĩa luôn bỏ vào bao lì xì tờ hai đô la là vì người Việt tin rằng tờ hai đô la là tờ tiền may mắn, mặc dù biết niềm tin này rất mơ hồ, không có cơ sở nhưng người ta tin thì cũng chìu theo. Nào đâu chỉ có niềm tin tờ hai đô la may mắn là mơ hồ, còn có nhiều niềm tin khác cũng rất mơ hồ thậm chí vô lý nhưng khi quần chúng số đông đã tin thì không thể nào cưỡng lại được. Cái quan niệm tờ hai đô là mang lại may mắn xuất phát từ trong nước, sau đó mới lan dần ra hải ngoại. Ở trong nước giờ ai ai cũng giữ tờ hai đô la trong bóp của mình. Ngày xuân mà tặng tờ hai đô la thì mang lại may mắn cho người. Nghĩa thầm cười trong bụng: “nếu tặng vài chục vài vài trăm tờ hai đô la thì quả là may mắn thật”!

    Mùa xuân mới lại về, ngày tết cổ truyền đang hiện diện với đầy đủ màu sắc, âm thanh và hương vị trên xứ sở Cờ Hoa. Nghĩa không về Việt Nam nhưng vẫn ăn tết lớn với cộng đồng Việt ở đây.
 
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 010124

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 503,693
Trong xã hội, từ thuở dựng nước, tiền nhân đã đặt người làm thầy vào vị trí rất cao trọng, chỉ sau vua, trong thứ tự Quân Sư Phụ. Với tôi, người làm thầy mang một thiên chức cao cả, vì người làm thầy có thể giúp định hình tương lai cho nhiều thế hệ tiếp nối. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có thân mẫu là người cả đời chỉ biết đến phấn trắng, bảng đen, có thân phụ vừa là sĩ quan quân đội vừa là huấn luyện viên của Cục Chính Huấn, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tình yêu dành cho việc giảng dạy đến với tôi thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng....
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Nhạc sĩ Cung Tiến