Hôm nay,  

Trở Lại

29/03/202400:00:00(Xem: 2925)
 tro lai
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học. Tuy nhiên đằng sau khuôn mặt nghiêm trang ấy là một con người hiền hòa, từ tâm, đầy lòng bác ái, thể hiện trong sự việc, ngoài săn sóc mẹ già, nuôi nấng đứa con trai duy nhất, Dì còn nhận trách nhiệm nuôi ăn ở trong nhà 4 cô cháu gái đang tuổi học trò, là con của anh trai mình. Và trong suốt thời gian 2 gia đình ở cạnh nhau, tôi chưa từng nghe Dì lớn tiếng la rầy các cháu mình. Năm năm sau, gia đình Măng tôi dời qua lầu Ba đối diện.

Trần Như Ái là tên con trai của Dì, nhưng tôi thường quen miệng gọi Bé, tên cúng cơm, nhỏ hơn tôi khoảng 5 tuổi. Có lẽ vì hoàn cảnh gia đình hai bên gần giống nhau – hai bà mẹ ở góa nuôi con – và nhất là vì hiện tượng mất cha của hai chúng tôi – cha của Bé mất khi Bé được chừng 5 tháng tuổi, cha tôi mất khi tôi còn là thai nhi 4 tháng trong bụng mẹ - nên Bé và tôi trở nên đôi bạn thân theo thời gian. Tôi vẫn giữ hình ảnh Dì Hoàn và Bà Ngoại của Bé, cả hai trong áo lam, ngồi tụng kinh trước bàn Phật trong một góc cuối phòng, trong vài lần rón rén vào nói chuyện với Bé trước khi ngủ tối.  Đăc biệt nhất âm thanh quen thuộc, đều đặn nhẹ nhàng, boong boong, boong, cốc cốc cốc; boong cốc boong cốc, cốc cốc cốc…. của tiếng tụng kinh gõ mõ của Bà Ngoại và Mẹ của Bé ru giấc ngủ bình an cho tôi hằng mỗi đêm và thanh thoát nhẹ nhàng đánh thức tôi dậy mỗi sáng sớm. Theo với tiếng gõ mõ tụng kinh là mùi hương thoáng tỏa nhẹ trong không gian lầu Ba. Năm này qua năm khác. Ngoại trừ những ngày làm việc trong tuần, Dì Hoàn thường mặc áo dài lam đi lễ chùa khá thường xuyên. Dì là hình ảnh một Phật Tử thuần chính dưới mắt mọi người.

Sau Mậu Thân 1968, Dì Hoàn đưa Mẹ vào sống tại Saigon. Bé được du học tại Australia năm 1969 sau kết quả đậu Bình về ban Toán. Do phận đời trôi nổi và cuộc sống bươn chải, chúng tôi mất liên lạc một thời gian khá dài, trên cả 4 thập niên, chỉ gián tiếp biết tin tức của nhau. Cho mãi đến hè năm 2018, vợ chồng Bé & Hương (cả hai đều du học trong cùng thời gian) đến chơi Cali chúng tôi mới gặp lại nhau. Trong một lần đến biển Montage, Bé và tôi có dịp ôm vai nhau đi dạo, nói chuyện đời, và lắng nghe tâm sự của Bé về Mẹ của mình. Những điều nghe được làm tôi quá ngạc nhiên, vì qua lời tâm sự, tôi nhìn thấy được ánh sánh mang Tin Mừng của Chúa Thánh Thần đã đổ xuống cho Dì Hoàn. Những lời Bé nói vẫn còn văng vẳng trong tôi:

“Lúc Bé còn nhỏ, thấy Me quen nhiều với mấy Mẹ và mấy Soeurs trong Dòng Kín Carmelites, và mấy Mẹ mấy Soeurs cũng rất thân tình với Me. Me tâm sự với Bé là đã quen nhau từ thời còn đi học trường Tây và Me cũng cảm thấy rất thân tình và mến Đạo. Nhưng vì Bà Ngoại còn sống nên Me không hề dám nghĩ đến chuyện theo Đạo. Tánh Me hiền, ăn chay, đi Chùa thường xuyên, được Thầy Từ Ân hướng dẫn. Rồi biến cố Phật Giáo năm 1963 Me nguyện ăn chay trường cầu mong mọi sự bình yên sẽ đến. Bé nghĩ Me có phần nào bị dằng co giữa hai tôn giáo và chỉ mong mọi người sống yên lành với nhau. Bé nghĩ cũng vì nguyện ý như vậy nên lúc sanh thời Dì Tiếp và Dì Chương rất thương Me (Dì Tiếp là Măng tôi, Dì Chương là mẹ của anh Nguyễn Xuân Đặng. cả hai gia đình đều là Công giáo và cùng sống trong khuôn viên trường Đồng Khánh). Khi Bé khoảng 4 tới 6 tuổi, rất nhiều lần Me dẫn bé đến thăm các Mẹ các Soeurs tại Dòng Kín Carmelites ở Kim Long. Sau đó tại Bé lớn hơn nên không được phép vào bên trong nữa mà chỉ còn một mình Me được cho vào thôi. Bé vẫn còn nhớ cảnh khuôn viên nhà dòng rất trang nhã với nhiều vườn hoa. Me còn đan nhiều áo ấm con nít rất đẹp để bán gây quỹ cho nhà dòng. Mấy Soeur rất hiền và dễ thương…”
         

Phải chờ đến khi bà Ngoại của Bé mất năm 1977, Dì Hoàn bắt đầu tìm hiểu lại đạo Công Giáo, gắn bó từ từ với tinh thần Công Giáo qua sự hội nhập với cộng đồng Dòng Đức Bà tại Saigon. Khi tôi hỏi Bé có biến cố nào thúc đầy Me của Bé chính thức rửa tội và trở thành con của Chúa, không một do dự, Bé cho biết như sau:

“Bấy giờ chị Xi đang kiếm đường vượt biên, nên Me của Bé phát nguyện là một khi chị Xi đến bến bờ tự do bình an, là Me rửa tội theo Chúa - Chị Xi là tên cúng cơm của Vương Thúy Loan, con gái út của ÔB Vương Quan, cũng ở trong Xóm Đồng Khánh với chúng tôi, và là chị em bạn dì với Bé vì 2 Dì Quan và Dì Hoàn là chị em ruột. Sau khi tốt nghiệp Sư Phạm và Cử Nhân Anh Văn từ ĐH Huế năm 1970, Vương Thúy Loan dạy Anh Văn tại trường Trần Quý Cáp, Hội An, cho đến 1975. Do một cơ duyên tâm linh, Thúy Loan là người duy nhất trong đại gia đình quyết định rửa tội thành người Công Giáo trước khi tốt nghiệp Đại Học. Và có lẽ Dì Hoàn là người nhiệt lòng ủng hộ quyết định cá nhân này.
Quả đúng như vậy, sự cầu nguyện thành khẩn của Me phải linh thiêng như thế nào nên sau đó chị Xi đã vượt biên thành công, đúng ngày 30 tháng 4, 1984 đến được đảo Kuku, một hòn đảo nhỏ nằm trong hơn 17 ngàn đảo của nước Nam Dương. Thật là mỉa mai và trớ trêu khi nhóm vượt biên của chị Xi đến bến Tự Do đúng vào ngày Cộng Sản trong nước ăn mừng giải phóng. Ngay sau khi nhận được tin lành, Me của Bé lập tức liên lạc với các Mẹ và Soeurs thuộc Dòng Đức Bà tại cơ sở Regina Mundi, thành khẩn xin học khóa giáo lý một cách cẩn trọng trước khi được cha và các soeurs chấp nhận, thực hiện các phép bí tích, rửa tội, cho Me trở lại Công Giáo vào một ngày gần cuối tháng 5, 1984”

tro lai 2.
Hình kỷ niệm sau lễ Rửa Tội (Từ trái sang phải): vợ chồng cháu gái của Dì Hoàn, Soeur Joseph, mẹ đỡ đầu – Dì Hoàn, mẹ của Bé – linh mục chủ lễ Rửa Tội, Soeur Gabriel

tro lai 3
Dì Hoàn nhận phép Bí Tích Thêm Sức
tro lai 4
Dì Hoàn nhận phép Bí Tích Rửa Tội
 
Trở lại có nghĩa là quay về lại nơi bắt đầu. Trở về với nguyên thủy. Như thể, trở lại nơi chôn nhau cắt rốn, trở lại với gia đình. Trở lại với niềm tin, trở lại với sự mơ ước. Như thể “con tim đã vui trở lại, tình yêu đến cho tôi ngày mai, tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, tôi hy vọng được ơn cứu rỗi”. Hơn nữa, phải chăng trở lại mang thêm một ý nghĩa cao quý hơn, một thăng hoa tiến về cái đẹp cái tốt vì chẳng ai muốn trở lại với cuộc sống đen tối, hay trở lại với cái xấu xa của quá khứ.   

Vì vậy sự trở lại luôn mang theo một nguyện ước nguyên thủy của mình, đó là tìm về một ước vọng, một ý niệm thầm kín khắc sâu trong tâm khảm nhưng chưa thể thực hiện được, vì ảnh hưởng văn hóa những ràng buộc xã hội, những ép đặc chính kiến, tôn giáo, những trăn trở dấu kín, hay đơn giản vì một chữ Hiếu - như trường hợp của Dì Hoàn – cho đến khi đúng lúc, đúng thì tự nhiên trở thành hiện thực.

If today you hear his voice, harden not your heart.
“Hãy mềm lòng khi con nghe tiếng gọi của Người.”

Không cần phải khấn trọn, Dì Hoàn sống một cuộc đời thánh thiện, đơn giản, trong một căn phòng nhỏ với các trang thiết bị cho tiện nghi cá nhân, nằm trong khuôn viên trường Regina Mundi, nay là trường Hồng Gấm. Bé cho biết Bé về Việt Nam thăm Me từ năm 1994. Mỗi ngày có một bà đến trông nom từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Mỗi ngày Me đi lễ hai lần sáng tối. Khi già hơn thì được đặc ân của nhà thờ có một dây chuông, ban đêm hữu sự kéo dây thì sẽ có người đến thăm hỏi. Một năm trước khi Me mất, mỗi sáng thức dậy sớm, Me đọc kinh tại phòng, được Cha cho người đem bánh thánh tới phòng để nhận hưởng. Lần cuối cùng Bé về thăm Me vào năm 2001. 
 
5
Hình hai mẹ con năm 1994
 
Me của Bé mất vào tháng 10 năm 2004, hưởng thọ 90 tuổi. Sáng đó, sau khi xem lễ và nhận hưởng bánh thánh, được người giúp việc đút ăn một muỗng cháo, đỡ nằm xuống gối và nhắm mắt lìa đời bình thản. Me được cremated và hủ tro được đặc ân để trong hộc kính ở trên tường phía sau phòng cầu nguyện, nơi Cha đến làm lễ mỗi sáng.” Về sau vì nhu cầu mở rộng của nhà Dòng, nên một người cháu gái của Dì đưa hủ tro của Dì Hoàn về nhà thờ Thủ Đức để tiện thăm viếng.

Sống lành, chết lành. Sau đúng 20 năm trở lại đạo Công Giáo, Guisemaria Trần Thị Như Hoàn, cựu giám thị trường Đồng Khánh, và là Dì Hoàn của Xóm Đồng Khánh chúng tôi - đã được an nghỉ nghìn thu.

REQUIESTCAT  IN  PACE (REST IN PEACE)?
 
Vĩnh Chánh
Mùa Phục Sinh 2024
 
 

Ý kiến bạn đọc
19/07/202412:31:53
Khách
requiescat in pace = may she / he rest in peace
11/04/202418:35:25
Khách
Viết về nước Mỹ mà ông nầy vô kể lể chuyện đời ông ở VN. Lộn cho đăng bài rồi ông ơi!
02/04/202400:30:10
Khách
Bài viết rất hay, dễ thuong. Được biết rõ hơn về thời thơ ấu của bạn tôi: Trần Như Ái.
Mừng bạn có được người Mẹ hiền lành, phúc đức, Thấn ái chúc bạn cùng gia đình luôn an vui, hạnh phúc.
Thương mến. Sâm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 503,831
Hồi mới qua Mỹ, tôi phải vừa đi làm vừa đi học để tự trang trải cuộc sống. Tôi được một công ty sửa chữa hàng điện tử, mướn vào làm ca đêm, vì ca ngày đã đầy. Ban đêm đi làm, ban ngày đi học cũng khá phù hợp với lịch trình của tôi lúc ấy. Tôi thuê một phòng trọ nhỏ, chỉ về nhà ngủ vài tiếng mỗi ngày trước khi tiếp tục công việc. Tôi làm việc không kể nặng nhọc hay khó khăn vì so với việc làm hồi còn ở Việt Nam thì sá gì với mấy công việc nhẹ nhàng này. Tôi vào hãng với tinh thần thoải mái vì tôi được làm việc trong một môi trường vui vẻ và tôi yêu thích công việc này. Ngược lại, việc học ở trường thì tôi vật lộn với nó như bò kéo xe lên dốc.
Người xưa có câu "70 chưa gọi là lành", ý nói họa phước của mỗi người tới 70 tuổi vẫn chưa biết được, phải tới khi hết thở thì mới có thể nói rằng cuộc sống của một người tốt xấu, lành dữ, ra sao. Câu chuyện dưới đây là một chuyện có thật về một chuyến du lịch bị trở ngại vào phút chót và những người trong cuộc đã trải qua những thử thách rất khó khăn, giống như họ phải chèo chống một con thuyền mong manh vượt qua cơn sóng dữ...
Hòa thức dậy lúc 5 giờ sáng sau giấc ngủ ngắn từ giữa khuya, căn phòng bệnh viện màu trắng ngà dưới ánh đèn vàng vọt buồn thiu, bên ngoài kia trời còn phảng phất lạnh lẽo của đầu mùa đông, dù mùa đông Seattle không nhiều tuyết tái tê như những nơi miền Đông Bắc nước Mỹ. Hòa vẫn thường ngủ ít và dậy sớm, có lẽ bệnh nhân nào cũng thế, nằm trong bệnh viện khắc khoải lo âu bệnh hoạn, lại thêm y tá nhân viên thường xuyên ra vào cả ngày lẫn đêm ai mà ngủ ngon cho được. Hòa rời khỏi giường, đi ra phía cửa, rồi đi dạo khu hành lang cho đầu óc khỏi suy nghĩ rồi lại buồn lại khóc. Các phòng bệnh đều đóng kín, mỗi bệnh nhân là một thế giới riêng, đau buồn riêng. Cuối hành lang xa xa thỉnh thoảng có bóng dáng vài cô y tá tất bật qua lại, ghé vào phòng nào đó thăm bệnh, lấy máu, đo huyết áp, đưa thuốc... nói chung là đủ thứ của công việc y tá.
Ông ngồi nhâm nhi tách trà, ánh mắt mông lung thả vào khoảng không. Từ tách trà nóng, một làn khói mỏng tỏa lên. Hương sen lãng đãng trong khu vườn buổi sáng, quyện cùng mùi cỏ cây, mùi sương ẩm. Buổi sáng bao giờ cũng là thời khắc êm đềm đối với ông. Không có gì phải vội vàng, ông cứ ngồi như thế, cho đến khi mặt trời lên cao và bình trà cạn nguội ngắc ngơ. Nhưng hôm nay thì khác. Bãi sân trống cạnh nhà là nơi tụ tập đá bóng của bọn trẻ từ sớm. Kỳ nghỉ hè vừa mới bắt đầu, bao nhiêu sự phấn khích cùng với năng lượng tràn đầy dồn vào những cú sút bóng ầm ầm, vào tiếng la hét vang dậy. Rồi cái gì đến cũng đã đến. Một cú sút thẳng chân, hất quả bóng bay qua hàng rào, rơi ngay bàn trà của ông...
... Có nhiều người nói nhổ răng hàm trên, nhất là mấy cái răng cấm thì dễ bị chạm dây thần kinh và về sau sẽ bị “mát dây”, và cũng có vài đứa bà con tôi biết sau khi nhổ răng cấm thì tâm thần rất là bất ổn, nếu không nói là bị bệnh thần kinh. Nhà tôi và mấy đứa con thì nói răng không đau đâu cần nhổ làm gì cho... thêm chuyện; thằng con còn “hù” tôi, kể lại khi nó đi nhổ răng khôn, người ta dùng kềm móc cái răng rồi “đu” người lên mà kéo; ông bố thì “dọa”, coi chừng nhổ răng xong bà không còn nhớ tôi là ai; rồi vài chị bạn tôi kể nhổ răng khôn về sưng đau hành rất lâu, rất mệt v.v... làm tôi hãi quá. Tôi lên “net” tìm hiểu về “lợi và hại của việc nhổ răng khôn” thì có quá nhiều thông tin xuôi chiều và ngược chiều, nên tôi quyết định không nhổ. Cho nó lành...
Trong cuộc đời của mỗi người, bất kỳ ở nơi nào trên thế giới, từ khi có trí khôn, là ta đã mang nợ và phải biết ơn nhiều người- từ Tổ Tiên Ông Bà, người làm ra hạt gạo nuôi ta, Đấng Sinh Thành, đến những Thầy Cô dẫn dắt ta, các cô chú Thương Phế Binh đã bảo vệ chúng ta bằng chính cuộc đời họ, đến bạn bè, người quản lý và giám đốc nơi ta làm việc, đồng nghiệp... người quen người lạ… tất cả mọi người chung quanh, ta đều mang ơn họ, không nhiều thì ít. Và riêng đối với những người được định cư ở quê hương thứ hai, ta còn phải mắc nợ thêm bao nhiêu là người nữa- từ chính phủ, những vị tổng thống, từ những vị giúp những chương trình tái định cư HO, ODP… đến những vị ân nhân bảo lãnh...v.v... trái tim nhân ái của họ bao la vô cùng... Kể ra tất cả những người làm ơn cho ta sẽ không hết - ở đây tôi chỉ xin đơn cử một vài việc rất gần đối với gia đình tôi, với đất nước “Cờ Hoa” đầy tình người này.
Cách đây rất nhiều năm. hồi chị còn đi học đại học ở Mỹ, trong một lớp của chương trình sư phạm, một vị giáo sư hỏi cả lớp trước khi cả lớp chuẩn bị nghỉ lễ Tạ Ơn: - Các bạn sẽ nói lời cảm ơn với ai trong dịp lễ Tạ Ơn năm nay? Các bạn đồng môn của chị nhao nhao, nói sẽ cảm ơn gia đình, thầy cô, bạn bè. Vị giáo sư quay sang hỏi chị có ai để cảm ơn không, dĩ nhiên chị có rất nhiều người để nói lời cảm ơn. Chị nói với vị giáo sư rằng chị rất biết ơn ba má và bạn bè của chị, người đã giúp đỡ chị quay lại trường đại học ở Mỹ. Chị biết ơn nước Mỹ đã cưu mang gia đình chị và giúp đỡ chị về tài chánh để chị được đi học. Chị biết ơn các giáo sư ở Mỹ đã khuyến khích, tận tâm giải thích cho chị những lúc chị không hiểu bài. Chị cảm ơn con trai chị đã giúp chị có động lực để quay lại trường học vì chị muốn làm tấm gương cho thằng Huy-là-con trai của chị. Chị muốn thằng Huy sau này khi lớn lên sẽ đi đại học như rất nhiều di dân gốc Việt khác...
Tôi thức dậy từ 6 giờ sáng lo những việc cá nhân lẹ làng, sau đó thay bộ áo dài cờ vàng lái xe lên San Jose, đến điểm tập họp trước “parking” của Walmart nằm trên đường Story. Vì câu nói của em trai Minh Huy trưởng đoàn Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa, khi Hoa Nguyễn mời, tôi đã ngại ngùng nói ”Chị già rồi không phù hợp với tuổi trẻ, đường xá xa xôi, vấn đề lái xe trở ngại, chỉ có thể đi tham dự hạn chế”. Minh Huy thưa ”Chị ơi! chúng em rất cần ba thế hệ một tấm lòng ...”. câu nói lễ phép với cả chân tình của tuổi trẻ đầy tha thiết đã động vào trái tim mình, nên tôi quên mất tuổi già không đủ sức khỏe tốt, vượt đường xa mưa gió góp mặt cùng nhóm hậu duệ đi diễn hành Lễ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ.
Một ngày trong tháng 9, 2024, Kim Oanh điện thoại cho vợ chồng chúng tôi, ngỏ ý muốn qua thăm “anh chị”. Chúng tôi cho biết, nếu cần đưa đón, chúng tôi sẵn sàng. Nhưng Kim Oanh trả lời sẽ nhờ người quen đưa đến. Chúng tôi hẹn gặp nhau vào cuối tháng 10, 2024 tại nhà chúng tôi. Kim Oanh là vợ của Trung Úy Không Quân Hoàng Văn Tân, một người bạn tù cải tạo rất thân thiết của tôi trong 2 năm tại Long Khánh. Kim Oanh có lần dẫn vợ tôi cùng nhau thăm lén hai ông chồng trong rừng cao su bên ngoài trại tù ở Long Khánh. Đây là một kỷ niệm không bao giờ quên, vì cả hai cặp có được chút thì giờ “tâm sự” riêng với nhau giữa cảnh màn trời chiếu đất. Anh Hoàng Văn Tân mất vào đầu năm 2016 tại San Diego.
Dân ta ở các tiểu bang miền Tây như Cali, Texas… gọi họ là dân “Mễ” vì họ vào nước Mỹ từ xứ Mexico; các tiểu bang miền Đông như Maryland, Virginia… gọi là dân “Xì”, vì nghe họ nói tiếng Spanish - tiếng gọi khác nhau, nhưng “Mễ” hay “Xì” cũng là di dân từ các nước Trung hay Nam Mỹ. Người Mỹ gọi họ là dân Hispanic hay Latino. “Chuyện dài di dân gốc Mễ”: từ nhà ra phố đến chuyện quốc gia đại sự đều có mặt dân “Xì”; vui buồn, thương cảm hay giận đến căm gan đều có bóng dáng anh “Mễ”...
Nhạc sĩ Cung Tiến