Hôm nay,  

Mùa Xuân Sang Có Hoa Anh Đào

11/04/202410:53:00(Xem: 2441)
cherry blossom
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, thy giáo hưu trí, định cư tại Hoa Kỳ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.

*

Ngày trước, khi còn ở quê nhà, mỗi lần nghe trên radio phát nhiều lần bài hát “Mùa hoa anh đào” của nhạc sĩ Thanh Sơn, cùng với ca từ “Mùa xuân sang có hoa anh đào. Màu hoa tôi trót yêu từ lâu. Lòng bâng khuâng nhớ ai năm nào. Hẹn hò nhau dưới hoa anh đào. Mình nói chuyện ngày sau...”, hay đọc bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên như : “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Trên phố đông người qua...” là lòng lại nao nao với ... “Tết đến, Xuân về”. Hoa anh đào, loài hoa biểu tượng của xứ Phù Tang, Nhật Bản, khác với hoa đào ở xứ Bắc nước ta, song cả hai đều nở vào mùa xuân, với tiết trời ấm áp, vui tươi, rộn rã của mọi loài cây lá và các loại hoa đua nhau hé nở, mang lại sinh khí vui tươi, phấn khởi cho mọi người...
Mùa xuân ở Việt Nam nói riêng và các nước Châu Á nói chung đều bắt đầu từ tháng Giêng, song ở Hoa Kỳ, có lẽ mùa xuân bắt đầu từ tháng Ba, Tư, khi mà tuyết tan, giá lạnh lui dần, đồng hồ được vặn tăng thêm một giờ, và nhất là hoa anh đào ở khắp nơi trên nước Mỹ bắt đầu rộ nở, đặc biệt là “Vườn đào ở Washington DC” đua nhau khoe sắc thắm.

Theo tài liệu của Cơ quan National Park Service ( NPS) “Vườn đào Washington” được thành lập vào năm 1912 với hơn ba ngàn cây anh đào do chính phủ Nhật tặng chính phủ Hoa Kỳ nhờ vào công sức của bốn người: Tiến sĩ Jokichi Takamine (nhà hóa học nổi tiếng thế giới và người sáng lập Công ty Sankyo – Daiichi Sankyo); Tiến sĩ David Fairchild thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ; Eliza Scidmore (thành viên nữ đầu tiên của hội đồng quản trị thuộc Hiệp hội Địa lý Quốc gia); và Đệ nhất phu nhân Helen Herron Taft.

Như vậy, tính đến nay, “Vườn đào Washington” đã có tuổi đời hơn 100 năm và đã để lại cho người dân Mỹ và du khách thập phương với biết bao ấn tượng về một vườn đào rực rỡ, nồng ấm tình hữu nghị của hai đất nước Mỹ- Nhật. Và cũng từ đó, mỗi năm khi hoa anh đào nở, chính phủ Mỹ đã tổ chức nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật phong phú, thu hút mọi người và hình thành nên nếp văn hóa đặc sắc với sự tham gia của các vị Đệ nhất phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ. Nếp văn hóa ấy, được gọi là “Lễ hội hoa anh đào”.

Lễ hội hoa anh đào, có xuất xứ từ Nhật Bản từ thời xa xưa với tên gọi là “Hanami” thường diễn ra từ cuối tháng Ba, đầu tháng Tư hàng năm. Hanami là từ ghép có nghĩa là “ ngắm hoa” theo tập quán chơi và ngắm hoa anh đào có từ thời “Nara” ở thế kỷ thứ 16. Ở Hoa Kỳ, mãi đến năm 1935, lễ hội hoa anh đào mới được tổ chức lần đầu tiên, nghĩa là 23 năm sau, khi đã hình thành vườn đào Washington và đến nay (năm 2024) đã tổ chức thành công 89 lần lễ hội. 89 năm thì có ít nhất là 2 lần, cây hoa anh đào được cưa bỏ để thay thế các loại cây mới có sức sống và phát triển tốt hơn, theo qui luật khắc nghiệt của thời gian, bởi lẽ, cây hoa anh đào có tuổi thọ tối đa là 30 đến 40 năm thì sẽ khô héo và lụi tàn, đấy là qui luật sinh tử, “sóng sau đè sóng trước” của vạn vật trong cõi đời này, và chắc hẳn mỗi lần phải “đốn bỏ” cây cũ để trồng lại cây mới, không khỏi để lại cho người dân Mỹ những cảm giác... trống vắng và bâng khuâng nhớ tiếc...

Sẽ nhớ tiếc biết bao những kỷ niệm của những mùa lễ hội hoa anh đào, rằng năm đó, năm đó... một mùa xuân đầy nắng ấm, có một chàng trai chân ướt, chân ráo chỉ mới vài năm đến đất nước của Nữ Thần Tự Do, duyên may đưa chàng trai ấy đến Washington D.C vào mùa hoa anh đào nở. Chàng như lạc vào mùa trẩy hội của... thần tiên, ngây ngất, mơ màng trước một trời rợp những cánh hoa anh đào màu trắng tình khôi như những làn da mịn màng của những nàng “tiên nữ”, bàng hoàng xao xuyến với màu hoa anh đào màu phấn nhạt, bên cạnh màu nước xanh bát ngát của dòng Potomac đầy nắng và gió cùng sắc đỏ hồng như môi má của những nàng con gái tuổi xuân thì bên bờ kè Tidal Basin, và cũng chính nơi đây, chàng trai làm quen với một “cô bé” mắt xanh, tóc vàng tuổi chừng đôi chín, với vốn liếng tiếng Anh còn đang... bập bẹ của mình. Nàng nghe chàng nói: “I am Vietnamese” đã sáng rực đôi mắt, ngón tay cái đưa lên luôn miệng “Good! Good!” và ửng hồng đôi má, cả khuôn mặt như đóa hoa anh đào tinh khiết khi chàng hạ thấp giọng, rụt rè câu: “ I am very pleased to meet you...”. Từ đó, họ thư qua, thư lại và hẹn với nhau mùa hoa đào năm sau, rồi năm sau nữa, rồi nàng đột ngột... biến mất, khi vốn liếng tiếng Anh của chàng trai đã giỏi hơn, có thể nói được những điều thầm kín trong ước mơ và suy nghĩ của mình!...

Năm nay hoa đào nở...”, câu thơ xưa học thời trung học ở quê nhà, chợt làm bâng khuâng hối tiếc. Em không phải là người “muôn năm cũ”, cũng không phải tuổi đời “xưa nay hiếm”, em như cô tiên trong truyện cổ tích, đã cất cánh bay về trời? Để lại một vườn đào trống vắng trong trái tim người lãng khách! Song du khách thập phương và người dân Hoa kỳ vẫn như ong, bướm bay về trẩy hội. Nhiều tà áo dài ở quê nhà và những thiếu nữ trong bộ áo kimono truyền thống của xứ sở Thái dương thần nữ cũng thấy xuất hiện trong những mùa hoa anh đào. Chàng trai năm nào bỗng nhớ đâu đó câu danh ngôn : “It does not do to dwell on dreams and forget to live.” ( Đừng bám lấy những giấc mơ mà quên mất cuộc sống hiện tại ), mà thầm nhắc mình hãy như những cánh hoa anh đào kia, lớp hoa cũ tàn úa, rơi rụng đi, thì những lớp hoa mới cứ chờ thời gian để bung nở thắm tươi mà tô điểm cuộc đời. Cám ơn hoa, cám ơn vườn đào đã nhắc nhở... “Năm nay hoa đào nở”!

Và năm nay, theo quy luật tự nhiên của cuộc sống, NPS ( Cơ quan quản lý Công viên Quốc gia Hoa Kỳ) lại vừa thông báo cho biết sẽ chặt bỏ khoảng 300 cây anh đào chung quanh Tidal Basin và phía tây của Công viên Potomac vì cần phải gia cố, sửa chữa bờ kè đã mục nát chung quanh hồ. Và cũng theo kế hoạch kéo dài khoảng ba năm nạo vét, tu bổ bờ kè xong sẽ trồng lại khoảng 455 cây mới, trong đó có 274 cây anh đào. Như vậy, sẽ mất nhiều năm, một khoảng “trống vắng” những cây anh đào cũ mới lại “hồi sinh” và tiếp tục nở những mùa hoa mới. Trong mắt khách thưởng ngoạn, sẽ trống vắng một “khoảng trời hoa” trong ánh mắt và cả trong trái tim. Đặc biệt là có những cây anh đào “đặc biệt”, ấn tượng hay lưu lại những kỷ niệm cá nhân mà bản thân, bạn bè, hoặc gia đình đã từng trải và gắn bó. Có thể là nơi “Lần đầu ta ghé môi hôn” (Thơ Trần Dạ Từ) hay, cái nắm tay âu yếm, vụng về, hay một bức hình chân dung nhiều kỷ niệm. Song như những quy luật của cuộc đời và cả cuộc chơi, những cây anh đào già nua, lão hóa, cần phải đốn bỏ và thay thế. Nhưng có một điều an ủi và cũng hết sức là nhân văn, bởi những người chăm sóc vườn đào, đã nghĩ đến việc, lấy thân xác những cây anh đào già nua, bị đốn bỏ, xay thành những chất mùn, vun bón trở lại cho những gốc anh đào mới trồng, nhắm giữ vững gốc và cũng coi như sự gắn kết, hy sinh để đời sau, con cháu luôn vững vàng vươn lên và tiếp nối công việc của mình. Và cứ như thế “Mỗi năm cứ đến mùa Xuân sang” anh đào lại bừng nở trong niềm vui tái ngộ của con người...

Chính Vũ

Ý kiến bạn đọc
18/04/202407:58:53
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 504,009
Trong xã hội, từ thuở dựng nước, tiền nhân đã đặt người làm thầy vào vị trí rất cao trọng, chỉ sau vua, trong thứ tự Quân Sư Phụ. Với tôi, người làm thầy mang một thiên chức cao cả, vì người làm thầy có thể giúp định hình tương lai cho nhiều thế hệ tiếp nối. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có thân mẫu là người cả đời chỉ biết đến phấn trắng, bảng đen, có thân phụ vừa là sĩ quan quân đội vừa là huấn luyện viên của Cục Chính Huấn, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tình yêu dành cho việc giảng dạy đến với tôi thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng....
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Nhạc sĩ Cung Tiến