Hôm nay,  

Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Tiếng Việt

18/07/202406:00:00(Xem: 1538)

bo-sach-vvnm 

Với bút hiệu Prudence Han Tranduc, tác giả đã có sách Anh ngữ "The Clan Divided," do một nhà xuất bản Mỹ tại New York ấn hành. Ông cũng là tác giả sách "Tiếng Việt Đáng Yêu." Trần Đức Hân sinh năm 1942 tại miền Bắc, di cư vào Nam. Từ những năm 60 học Văn khoa, dạy học, khóa 20 Thủ Đức, khóa 15 Kỵ Binh Thiết Giáp, bị thương, giải ngũ năm 1968, tốt nghiệp cử nhân Văn khoa, tiếp tục dạy học. Năm 1980, vượt biển, định cư tại Cộng Hòa Liên Bang Đức. Từ 2000, di dân sang Mỹ, học lại Anh văn từ ESL tới các lớp viết văn và hoàn tất được ba cuốn sách. Tác giả hiện là cư dân thành phố Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2016 và sau nhiều năm vắng bóng, nay ông trở lại với bài viết đầy tâm huyết về việc gìn giữ và lưu truyền tiếng Việt cho thế hệ trẻ.
 
*
 
Sách và Báo Chữ-Việt xuất bản ở nước ngoài rất nhiều. Riêng ở Mỹ, có vài trăm tác giả viết sách. Báo ngày có Việt Báo, Viễn Đông, và Người Việt. Báo tuần, báo tháng có trên chục tờ. Thêm vào còn có các Tạp San của Tôn giáo và hội đoàn. Rất nhiều nữa nhưng xin độc giả thông cảm cho sự ngắn gọn này.
 
 
TĐH đã vào Internet nêu câu hỏi: “Nguồn gốc Anh-ngữ ngoài những từ vựng của riêng mình, còn lấy thêm nguồn gốc từ các ngôn ngữ nào khác?” Câu trả lời là một ‘list” khá dài. Tác giả xin trích một số ngôn ngữ: Latin, French, German, Yiddish(?), Portugese, Italian, Spanish, Arabic, Russian, Swedish, Native American languages, Chinese, Korean, Japanese, ... Vietnamese. Từ mỗi ngôn ngữ, họ cho vài thí dụ.  Ngôn ngữ viết Alphabet- scripts thường giữ nguyên hoặc đổi khác chút ít; ngôn ngữ viết kiểu khác thì ghi âm lại bằng Alphabet-script của English. (Ví dụ tea của Chinese, tycoon của Japanese).              
 
Do các dữ kiện vị trí và lịch sử của nước Nam (Vietnam) chắc quý độc giả đồng ý với thực tế “Chữ Việt Tiếng Việt Còn thì Nước Việt Còn.”
 
Dữ Kiện Vị Trí: Nước Việt-Nam nằm ở vị trí huyết mạch tuyến đường thương mại cũng như chiến lược vùng Đông Nam Á.
 
Vài thí dụ về tuyến đường thương mại: Việt sử cho ta biết, khởi đầu từ năm 1533, các tàu buôn Portuguese, do Antonio Da Faria chỉ huy, có những lần đến Đà-Nẵng (Tourane) hay Hội-An (Faifo) ở trong Nam. Từ 1540 đến 1800, các thương thuyền của Portuguese, Spanish, Britain, France, và Nertherlands trên đường đi Macao nước China và Nazaki nước Japan, thường ghé vào Đà-Nẵng trong Nam hay Phố-Hiến (Hải-Phòng) ngoài Bắc.
 
Vài thí dụ về tuyến đường chiến lược: Điển hình là vị trí chiến lược Cam-Ranh Đà-Nẵng. (a) Trong chiến tranh Russo-Japanese ở thập niên 1900s, trong một trận hải chiến, khi hạm đội Nga yếu thế, họ vào bố trí ở Cam-Ranh Đà-Nẵng nên hạm đội Nhật không thắng được trận đó. (b) Khi Pháp chiếm VN, họ cũng khởi đầu 1858 từ eo biển này. (c) Trong Thế Chiến II, sau khi quân phiệt Nhật đã chiếm Korea và nhiều tỉnh miền đông China năm 1937; vài năm sau, họ tràn vào Việt Nam làm vị thế bàn đạp đánh chiếm các nước phía nam như Philippines, Singapore, Burma (Myanmar), vân vân. (4) Sau này, trong chiến tranh Việt Nam, đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đến Nam-Việt Nam năm 1965 cũng đổ bộ lên bãi biển này.
 
Dữ Kiện Lịch Sử: Trong quá khứ, nước Bắc (China) đã xâm chiếm nước Nam (Việt Nam) mấy lần.
 
(1) Từ 111 BC – AD 939 (1,049 năm; nếu trừ bớt 3 năm nhờ Hai Bà Trưng giành được chủ quyền năm AD 40 – 43 thì còn 1,046 năm.) Thời gian hơn một nghìn năm này, kẻ xâm lăng cai trị dân Việt rất khắc nghiệt như nô lệ và vơ vét những gì qúy giá chở về nước Bắc. Đặc biệt Mã-Viện (Phục-Ba) của nước Bắc đã gom gần hết các trống đồng của nước Nam, nấu chảy đúc thành Cột Đồng Trụ, khắc chữ Hán đe dọa: “Cột đồng chiết; Giao Chỉ diệt.” (chiết = đổ gãy). Năm AD 939, Ngô Quyền thắng quân Nam-Hán và tuyên bố độc lập.
 
(2) Vua Đinh Tiên Hoàng và con trai bị cận vệ Đỗ-Thích ám sát năm 979. Nhà Tống (Song) nước Bắc sửa soạn chiếm nước Nam; năm 981 đem quân tới biên giới. Nhưng nước Nam biết trước nên tướng Lê-Hoàn chặn đánh tan quân Bắc ở biên giới. Sau đó, Lê-Hoàn khởi đầu nhà Tiền-Lê với tước hiệu Lê-Đại-Hành.
 
(3) Những ai chú ý chút ít Việt-Sử đều biết nhà Trần đã ba lần chiến thắng quân xâm lăng Mông-Cổ (Yuan) các năm 1258, 1285, và 1287. (Yuan, dòng họ Ganghis-Khan Mongolia cai trị nước Bắc (China) thời kỳ đó.) Nước China trước đó gồm 10 nước khác nhau: (Zhou, Jin, Xi-Xia, Liao, Nanzhao, Qidan, Northern Song (Bắc-Tống), Southern Song (Nam-Tống), Sui, Tang). Tuy họ đang phát triển chữ Ideograph (tượng hình), nhưng mỗi nước phát âm khác nhau, nói chuyện không hiểu nhau nên phải “bút đàm”. Trớ trêu thay, người Mongols đã thống nhất 10 nước China, rồi chọn tiếng vùng Peking làm tiếng Quan-Thoại. (Ngay cả ngày nay, cùng là người Chinese mà ỏ hai vùng khác nhau, hoặc là cùng biết tiếng Quan-Thoại, hay là phải học tiếng của nhau mới nói chuyện được với nhau.)
 
(4) Hồ Quý Ly là quan của nhà Trần. Sau khi thủ tiêu nhiều con cháu can đảm nhà Trần, chỉ còn mấy người nhát gan mời hắn lên làm vua năm 1400. Một quan tên Nguyễn-Khang giả là cháu họ Trần sang China làm việc dại dột xin quân nhà Minh sang giúp. Nhà Minh cai trị dân Việt rất độc ác như thời Mã-Viện. Nhờ có Lê-Lợi đánh quân Minh 10 năm mới giành được độc lập. Lê–Lợi lập nhà Hậu-Lê tước hiệu Lê-Thái-Tổ.
 
(5) Hậu-Lê cai trị nước Nam đến năm 1527 thì Mạc-Đăng-Dung làm phản tương tự như Hồ-Quý-Ly chiếm ngôi nhà Trần. Nhà Minh lại sửa soạn định chiếm nước Nam. Mạc-Đăng-Dung biết chắc sẽ thua nên dâng châu báu và cắt một phần nhỏ nước Nam cho nước Bắc rồi sang nước Bắc nộp mạng.
 
(6) Khi Mạc-Đăng-Dung chiếm ngôi, mấy hoàng tử chạy trốn ở mấy vùng khác nhau. Mỗi người lập quân đội riêng. Họ đánh nhau giành ngôi. Nguyễn-Kim và hai con trai Nguyễn-Uông, Nguyễn-Hoàng, con rể Trịnh-Kiểm phò một hoàng tử. Nguyễn-Kim chết, trao quyền cho con rể. Kiểm thắng trận, lập nhà Lê-Trung-Hưng; Kiểm lấn quyền; vua chỉ là bù nhìn. Kiểm giết Uông; nên Hoàng dẫn một phần quân đội chạy vào miền nam lập giang sơn riêng. (Sau này là nhà Nguyễn-Phước.)
 
Năm 1771, nước Nam lại có 3 phe đánh nhau. Vua Lê và quan Trịnh ở bắc, Nguyễn-Huệ ở trung, Nguyễn-Hoàng ở nam.
 
Miền bắc vua Lê-Chiêu-Thống bị lấn quyền chạy sang nước Bắc cầu xin nhà Thanh (Qing); do đó quân Thanh lại đem quân chiếm nước Nam năm 1789. Tình huống đó, Nguyễn-Huệ xưng là vua Quang-Trung, đuổi được quân Thanh.
 
Tóm lại, trong thời gian quá khứ, rất nhiều lần nước Bắc đã chiếm nước Nam; nhưng quân dân Nam đã đánh đuổi được. Ngày nay, cờ nước China có 1 sao lớn và 4 sao nhỏ. Theo Internet thì sao lớn tượng trưng dân tộc Hán; 4 sao nhỏ tượng trưng cho 4 dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Có ý nghĩa gì khi một sao lớn hơn mấy sao khác? Trên Facebook, vài lần đưa tin khi Vietnam tiếp một nhân vật chính phủ China, trên đài TV, cờ China gắn thêm một sao nhỏ nữa!? Mong rằng đây chỉ là “tin vịt” hình “giả dối”.
 
*
 
Không nước nào có chung biên giới với nước Bắc (China) làm những việc sai lầm to lớn và lâu dài gần 20 thế kỷ về chữ viết và văn học như nước Nam (Việt Nam). Thí dụ Korea: thế kỷ thứ 15, triều đại Yi, vua thứ IV (1419 – 1450) nước Korea đã ra sắc lệnh dùng chữ Hangul, khác hoàn toàn với chữ Chinese, cho tiếng nói Korean của họ. Do đó các văn nhân thi sĩ đã dùng chữ này để viết truyện làm thơ tả nhân vật và cảnh đẹp của nước họ. Nước Nam (VN) thì cứ mù quáng dùng chữ Chinese, phát âm chữ Nho mà dân không hiểu, phải giải thích mãi mới hiểu.
 
Nước Nam (VN), ngay sau những lần đuổi được quân xâm lăng về nước Bắc, vẫn trọng vọng tất cả những gì của nước Bắc: đam mê văn học, say đắm nhân vật, ca ngợi cảnh vật. Lỗi lầm to lớn kéo dài 20 thế kỷ là khinh chê ngôn ngữ của chính dân tộc mình, dùng tiếng ngoại lai, chữ nước China (mà đại đa số 95% dân không hiểu), để tuyển lựa người cai trị nước; dùng chữ ngoại lai trong tất các công văn, hộ tịch, vân vân. Thật xấu hổ, khi vua Việt loan kêu gọi việc gì trực tiếp với dân, lại nói tiếng Chữ-Nho để tỏ ra là thông thái (sic), rồi một quan dịch ra tiếng Việt cho dân Việt.
 
Tuy tiếng Chữ-Nho không là tiếng Quan-Thoại, nhưng nó tương đương như một tỉnh nước Bắc: (cùng một thứ chữ, nhưng mỗi tỉnh phát âm khác nhau). Nếu không đuổi được quân xâm lăng, rất dễ bị đồng hóa.
 
Một sự thật nữa trong quá khứ là không có hệ thống trường lớp học Chữ-Nho, chỉ có một số vị giỏi Chữ-Nho không được làm quan (hoặc “từ quan”) mở lớp tại nhà riêng hay đình làng. Cả nước chắc cũng tới cỡ 100 lớp. Học trò trong lớp có các trình độ thấp cao khác nhau.
         
Mặc dầu trong thời gian 8 thế kỷ (từ XIII đến XX) trong số 5% các vị giỏi Chữ-Nho có vị đã dày công sáng chế chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt, tiếng của dân tộc; như vậy phải giỏi Chữ-Nho mới đọc được Chữ-Nôm nên khó quá, thêm vào đó nó không được triều đình công nhận nên không phát triển được. (Bài Văn Tế Cá Sấu đã được viết bằng Chữ-Nôm năm 1282.)
 
Sau 8 thế kỷ, mà chỉ có 26 tác phẩm Chữ-Nôm bằng thơ. (Nhưng rất tiếc hầu hết chúng gồm toàn các nhân vật Chinese và cảnh bên China.) Thơ gieo vận nên một người đọc các người nghe mới dễ nhớ để sau này lại kể cho những người khác. Người khác lại kể cho người khác nữa.
 
Ngày nay, với Việt-ngữ (Alphabet-script) ta đang dùng, chỉ trong vòng một tháng có thể có cả trăm tác phẩm, chưa kể báo tháng, báo ngày, bản nhạc, vân vân.
 
*
                   
Lịch sử thành lập chữ (Quốc-ngữ) Việt-ngữ = Alphabet-script, hệ thống trường lớp học được xây tổ chức, mọi lứa tuổi dân Việt nô nức học, tôi  đã viết sẵn bài 16 trang: (Tinh Hoa của Tiếng Việt-Nam).
 
Chữ-Nôm quá khó như thế nào; Việt-ngữ mở rộng chân trời cho dân và nước Việt-Nam, tôi đã viết sẵn bài 7 trang: (Chữ Viết Khác Nhau cho Tiếng Việt Qua Các Thời Đại).
 
*
 
Trong chương VN-2 (Nhật-Bản Mở - Việt-Nam Đóng), ta thấy bất cứ lãnh vực nào, say mê hay trông nhờ nguồn gốc một nước duy nhất là dại dột và thiển cận, nhất là Việt-Nam một nước nhỏ mà lại nằm ở vị trí chiến lược toàn cầu. Tiếng nói cũng vậy; xin đừng ngụy biện nó là truyền thống. (Việc gì tốt đẹp mới giữ; điều sai lầm phải bỏ.) Hãy theo gương Anh-ngữ đã múc nguồn từ nhiều gốc khác nhau.
         
Nếu để ý, quý vị sẽ thấy từ đầu thế kỷ 19, cách nay hơn một thế kỷ, tiếng Việt đã có khoảng một ngàn chữ gốc Anh-Pháp đọc trại đi (tương tự như xưa học tiếng Chinese đọc trại đi thành Chữ-Nho). Sau đây là một số ví dụ tiếng gốc Anh-Pháp:
 
Ô-tô (auto), lô-gích (logic), nhà ga (gare), con-vít (vis) mít-tinh (meeting), xà-bông (savon), áo-sơ mi (chemise), cà-phê (coffee), tách (tasse), bia (beer), rượu-xâm-banh (champagne), thịt bít-tết (beefsteak), bánh bích-qui (biscuit), quần-sọc (short), cao-bồi (cow boy), mũ cap (kép), áo-măng-tô (manteau), sô-cô-la (chocolate), bơ (beurre), phô-mát (fromage), cà-rốt (carrot), xà-lách (salade), hô-ten (hotel), xe buýt (bus) Cao-su, si-măng, ca-nô, xe tăng ... chất hóa học... thuốc chữa bệnh...  (còn rất nhiều).
 
Trong các lãnh vực khác, ví dụ âm nhạc, có các chữ như piano, violin, guitar, harmonica, harmonium, . . . valse, bolero, tango, Rumba, rock, chachacha, samba, đâu cần tìm Chữ Nho gốc Chinese để đặt tên cho phức tạp khó hiểu thêm!
 
Hệ thống đo lường: trọng lượng (gram), chiều dài (mét), thể tích (lít), các hãng xe, loại xe Renault, peugeot ... vân vân.
 
Thế kỷ 21 rồi, ảnh hưởng trong nhiều lãnh vực với tính cách quốc tế mỗi ngày càng tăng. Có những sáng chế từ Âu-Mỹ, (không phải từ China) có tên quốc tế rồi như radio, tivi, computer, internet, E-mail, video, calcium, aspirin, vitamin, . . . mà lại giật lùi lại cố gắng tìm kiếm chữ Nho gốc Chinese! Ta không muốn gia nhập cộng đoàn thế giới, chỉ muốn dựa vào China hay sao? Gần cuối thế kỷ XX, khi dân chúng đang rành rẽ nhiều danh từ gốc Pháp, vài ông bà mê Chữ-Nho đặt tên lại như tây-ban-cầm (guitar), dương cầm (piano) vĩ cầm (violon) ... Dân chúng chẳng ai theo vì không muốn học những điều vô ích.
 
Cứ khăng khăng chỉ dùng chữ gốc Tầu mà thôi là bước đi theo cùng một lỗi lầm lớn của thời đại trước. Hãy thêm chữ gốc Âu-Mỹ giúp dân ta bớt nhìn vào nước China mà nhìn thêm ra cả toàn thế giới.
 
Trên thế giới, có gần 200 nước, trong thế kỷ trước, khoảng 40 nước Việt-Nam đã dùng âm Chữ-Nho (gốc chữ Chinese) để đặt tên. Các thành phố thì ít hơn. Nhưng nay thì đang được thay thế bằng âm tiếng English hay French. Ví dụ Israel, Afghanistan, Iran... Canada, Argentina, Brazil... Bangkok, Paris, San-Francisco... Vài ông bà còn nuối tiếc dùng A-Phú-Hãn, Ba-Tư, Á-Căn-Đình, Ba-Tây... Vọng-Các, Ba-Lê, Cựu-Kim-Sơn... Nhưng họ rất cô đơn.
 
*
 
Tôi xin đặc biệt đề cập đến công trình Viết Về Nước Mỹ của ngàn người viết triệu người đọc vì đạt được thành công và lợi ích vượt không gian và thời gian.
 
Vượt không gian vì các bài viết được đăng trong báo ngày Việt Báo và in thành sách Viết Về Nước Mỹ hàng năm hơn một phần tư thế kỷ, các bài viết còn hiện diện trên Website đạt được thành công rất lớn, hiện nay đã có nhiều triệu độc giả trên toàn thế giới ngưỡng mộ tìm đọc. Hãnh diện hơn nữa, sách được lưu trữ lâu dài trong Thư Viện Quốc Gia Hoa Kỳ.
 
Vượt thời gian vì (a) các bài viết sẽ tồn tại trong tương lai những chứng tích lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam kéo dài và tàn khốc gây đau thương và tàn phá không kể xiết; (b) tiếp theo là những chính sách cai trị hà khắc và độc ác của đám người độc tài thắng trận gây nhục nhã và đói khổ đến dân bị cai trị; (c) sau đó là các đợt vượt trốn chế độ độc tài đi tìm tự do trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm khiến từ ba trăm ngàn đến nửa triệu chết, trong hoàn cảnh kinh hoàng. (Tổng số từ Cơ Quan Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc HCR).  Một số phụ nữ trẻ bị hải tặc hay cướp “làm nhục” tập thể trong thuyền trên biển cà hay trong rừng sâu. Nam bị đánh chết, xác vất xuống biển.
 
Tuy rằng tất cả các vị làm thơ viết văn Việt-ngữ hiện tại đều là những người đã thông tạo tiếng Việt và chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi, vẫn là một thực tế rất đáng hân hoan. Nước nào cũng vậy tổng số văn thi sĩ chỉ khoảng vài ba phần trăm trong tổng số dân.
 
Từ vài chục năm nay, chúng ta đã đồng ý với sự phân chia thành ba thế hệ người Việt đang sống ở nước ngoài: (1) Thế hệ thứ nhất gồm những vị đã thông tạo tiếng Việt vả chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi. (2) Thế hệ một rưỡi gồm những người rời khỏi quê nhà trong tuổi thiếu nhi chưa rành rẽ chữ và tiếng Việt. (3) Người trẻ được sinh ra ở quê hương thứ hai. Theo nhận xét của tôi thì việc đọc sách và báo Việt không có được sự hân hoan tương đương như trên. Tôi không dám viết ra đây phần trăm ít ỏi đã lượng định, xin quý độc giả tự làm việc này.
 
Vậy ta phải làm gì để Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Việt? Ta hãy làm thế nào mà chợt có dịp may, một người thế hệ sau cầm quyển sách hay tờ báo đọc thử, nếu họ hiểu thì mới có cơ may họ sẽ tiếp tục đọc sách báo Việt. Nếu không hiểu thì họ sẽ từ giã, rất khó sẽ thử lại một lần nữa. Việc làm này cũng giúp cho toàn dân Việt nhìn rộng ra thế giới.
 
Sau khi đọc các sách hàng năm Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo tôi thấy càng ngày càng phải dùng thêm từ vựng trong các lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt là Tây-y-khoa với phương pháp tìm bệnh, ngừa bệnh, chữa bệnh và tên các thuốc. Cụ thể cuốn năm 2023 có thêm khoảng một ngàn từ Anh-ngữ viết nguyên dạng (khác với những từ kể ở phần trên, không phiên âm sang Việt-ngữ.) Có từ được dùng lại rất nhiều lần, càc phrases (nhóm từ), sentences (trọn vẹn câu).
 
Ngay phần mở đầu nơi trang 4 đã có 5 dòng Anh-ngữ thông báo cần thiết xuất xứ của cuốn sách: Writing on America Volume XXIII . . . Xin quý vị tìm đọc và làm nổi bật (highlight) những từ vựng English để thấy rằng tôi viết ra sự thật.
 
Nhưng tôi xin liệt kê một số lãnh vực mà cuốn này dùng từ vựng English: Phương tiện truyền thông, tây-y-khoa, thành phố, địa danh, tên các nước, hội đoàn, xây cất, tên các film, địa chỉ, tên nhà thờ, bệnh viện, tên sông, biển, dụng cụ kỹ thuật, hoa, cây cỏ, tên người, thực phẩm, các hê thống đo lường của Mỹ, tên đàn, nhạc, films ciné, chim muông: tên các hãng sản xuất, tên  xe, thời-tiết, bão, dịch vụ, sinh hoạt tour, tên tiền Tiền: (Dolla, Euro) tên trường học, tên chợ . . .  Xin quý vị tìm đọc và làm nổi bật (highlight) các từ vựng English để thấy rằng tôi viết ra sự thật.
 
*
         
Như vậy đề nghị của tôi đi sau đường hướng Viết Về Nước Mỹ hơn hai thập niên và chỉ nằm trong một lĩnh vực, nó chỉ bằng một phần trăm mà thôi.
 
Đề nghị sau đây của tôi không mới mẻ đâu mà đã bắt đầu từ lâu rối. Sau đây là đề nghị của tôi:
 
Nguyên tắc I: Tên các nước ta không Nho hóa mà dùng như tiếng Anh; (ta có thể phiên âm bằng tiếng Việt). Ví dụ ta đã dùng tên nước Algery, Iraq, Panama . . . tên thành phố Tokyo, Marseille, Quebec . . .  được; tất nhiên các nước khác thành phố khác cũng dùng tiếng Anh được. Sau một thời gian sẽ quen dần.
 
Nguyên tắc II: Xin hãy giảm bớt dùng chữ Chữ-Nho (gốc Chinese); và dùng chữ ngôn ngữ Việt thay thế vào.
 
Nguyên tắc III: Xin hãy phát âm và ghi âm tên nơi chốn nước China và tên riêng họ như tiếng Anh. (Để nhấn mạnh hai nước khác nhau hoàn toàn. Đây cũng là hình thức ngăn ngừa bị đồng hóa.) Chắc là nó khó một thời gian, nhưng nó sẽ quen dần.
         
Tham Khảo:
Biểu Nhất Lãm Văn Học Cận Đại (GS Thanh Lãng) Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ + Lịch sử Thế Giới (LM Đỗ Quang Chính) Chữ Viết của Người Việt Nam Qua Các Thời Đại. Nam Hoài Bão. 
         
 
Trần Đức Hân           
 
 

 

 

           

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 510,274
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải đặc biệt năm thứ mười tám và giải Danh Dự năm 2023. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO. Sau đây là bài viết mới nhất của tg, về việc ông bà trông giữ cháu ở Mỹ.
Tác giả bắt đầu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”. Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali. Tác giả nhận giải vinh danh tác giả 2023. Bài viết này MTTN viết về giọt nước mắt người Mẹ, là tác giả Phương Hoa, một cây viết đoạt giải Chung Kết VVNM được yêu mến. VVNM và Việt Báo một lần nữa xin chia buồn cùng tác giả và tang quyến.
Người ta thường nói “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn “hay “Hồn lỡ sa vào đôi mắt em” …mà nếu đôi mắt đó che bằng một cặp kính dày thì làm sao mà “thấy” được cái tâm hồn đầy thơ mộng và lãng mạn để…sa vào đôi mắt đây? …nên tôi nhất định không đeo kính cận khi đi học hay đi chơi để mong có cơ hội chớp được anh chàng nào đó lỡ dại sa vào đôi mắt mơ huyền của tôi. Tôi bắt đầu nhận ra mình bị cận thị khi học trung học vì không thấy rõ được chữ thầy cô viết trên bảng, ngay cả khi ngồi trên ghế bàn đầu trong lớp. Nhà nghèo, không có tiền đi bác sĩ để lấy toa và mua kính nên tôi thường mượn sách của bạn xem lại những thiếu sót. Và cứ như thế tôi học xong trung học, đỗ Tú tài và vào học đại học.
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học.
Ở những thành phố tại miền Nam Cali mà tôi đã ở thì mỗi tuần một lần, xe đổ rác sẽ đến từng nhà để mang rác đi. Tại thành phố tôi đang cư ngụ, thứ tư hàng tuần là ngày đổ rác. Khoảng 7:30 sáng thì xe đổ rác xanh (cỏ, lá, vỏ trái cây) sẽ đến lấy rác đi. Khoảng giữa trưa thì đến lượt xe đổ rác tái sinh (recycle). Đến năm giờ chiều thì xe đổ rác đồ ăn và những thứ rác còn lại sẽ chạy chuyến chót. Tất cả mọi nhà trong xóm, trừ gia đình hai ông bà Mỹ già bên kia đường, đều kéo các thùng rác ra lề đường mỗi tối thứ ba để cho các xe rác đến đổ vào ngày hôm sau. Hai ông bà Mỹ già luôn đợi đến khoảng 7 giờ sáng thứ tư mới kéo thùng rác ra. Điều này làm tôi rất bực mình, nhất là vào các tháng mùa đông, vì tiếng động kéo thùng rác của hai ông bà đánh thức tôi dậy.
Đã bao giờ bạn cầu nguyện một điều gì chưa? Hầu như trong chúng ta, ai cũng đã từng chắp tay cầu nguyện một điều gì vì lòng trắc ẩn khi nhìn cảnh hoang tàn đổ nát ở dải Gaza, vạn gia đình bồng bế nhau chạy giặc, những nấm mộ ven đường gợi nhớ quê xưa. Bạn thầm cầu nguyện bình an cho những người khốn khổ được trở về nhà. Tôi nhìn những người lính trẻ dưới giao thông hào tuyết đá lầy lội của trận chiến đang cam go giữa Ukraine và Nga, tôi nhớ chiến tranh ở quê nhà nên thầm cầu nguyện ơn trên che chở cho những người lính vì họ còn quá trẻ. Bạn cầu nguyện cho những người không quen biết đang bị động đất ở đâu đó trên địa cầu được bình an trở về nhà. Tôi cầu nguyện cho cơn sóng thần khủng khiếp tiếp diễn đổ vào hoang đảo, đừng đổ vào những thành phố ven biển đông dân cư, nơi tôi chưa từng nghe hay biết đến địa danh đó trước khi xem tin tức trên tivi… Nhưng đã bao giờ tôi và bạn suy nghĩ về hành vi của mình với những người không quen biết, những nơi chưa từng nghe tên hay đến đó bao giờ.
Với tôi hình ảnh đẹp nhất thế giới không phải là hoa hậu hoàn-vũ đăng-quang, hoặc siêu mẫu chân dài, hoặc siêu cầu thủ túc-cầu, hoặc tân tổng-thống siêu cường, hoặc tân giáo-chủ nào đó; mà là đôi uyên-ương dắt tay nhau chậm rãi, rất chậm rãi đi bộ dọc phố Bolsa sầm-uất. Chàng đi khập khiểng, nàng dựa vai nghiêng. “Đây là vợ em mười mấy năm rồi,” Tâm giới thiệu Diệu khi họ bước vào văn phòng tôi. Có lẽ bạn đã nghe nhiều chuyện về con lai. Năm mươi năm từ 30/4 rồi còn gì. (Không cần phải thêm 1975 vì ai cũng tự hiểu. Có không hiểu thì chỉ là giả bộ.) Nhưng chuyện của Tâm, Việt lai Mỹ Đen, thì tàn nhẫn. Phải dùng chữ tàn nhẫn. Càng tàn nhẫn, càng đượm yêu thương khi tình yêu đến.
Những điểm tốt đẹp hấp dẫn của Little Sài Gòn, Nam California (mà người Việt hải ngoại mình hay gọi ngắn gọn là Khu Bolsa), đã được nhiều người nói đến. Nào là khí hậu ôn hoà, nhiều bờ biển nổi tiếng, nhiều phong cảnh đẹp xinh, cây trái hoa lá tốt tươi và nhất là “thiên đường ẩm thực” của người Việt khắp nơi đổ về thưởng thức. Tôi không phản đối điều này, mặc dù tôi đã bị vào vài ba quán không hề ngon tại Bolsa, khỏi cần kể tên ra đây làm gì (kẻo bị... guýnh sao, ngu gì!). Sự thực, kiểm lại những quán ăn Việt Nam ở nhiều thành phố tôi đã từng ghé qua, có nơi nhiều lần, từ Canada qua Mỹ thì thấy rằng, nơi nào cũng có thức ăn ngon. Nhưng ở Little SaiGon vì dân số đông, mức độ canh tranh nhiều, nên thức ăn đa dạng hơn, và có thể ngon hơn, còn ngon nhất hay nhì hay ba, thì tuỳ vào khẩu vị từng người, có phải ? Thôi thì “điểm cộng” người ta nói hết rồi, bữa nay tôi nói về những điểm “chưa tốt”, hay còn gọi là “điểm trừ”, nha!
Tác giả tên thật Trần Đình Phước, Sanh năm 1947, Cựu Trung Úy Không Quân VNCH. Đến Mỹ 10-1992. Danh sách HO-13. Tác giả nhận giải đặc biệt năm 2023 Hiện đang sống tại San Jose. (Ghi lại cuộc nói chuyện giữa một học sinh và một nhân viên Crossing Guard tại ngã tư Curtner Ave và Booksin, Ave, thuộc Thành Phố San José trong lúc em chờ phụ huynh đến đón.)
Cánh cửa ngăn cách giữa hải quan và người chờ thân nhân vừa mở ra tại phi trường Norman Y. Mineta San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ, mọi người đổ xô háo hức đứng lên, cặp mắt ai nấy mở thật to với những bó hoa, bong bóng đủ màu trên tay sẵn sàng chào đón người thân từ xa đến. Riêng tôi… cũng có hoa tươi, bong bóng hình gấu, hình trái tim… nhưng vai trò của tôi thật bất đắc dĩ. Tôi đi đón… vợ của người ta! Phải rồi, vợ của tên bạn thân, Chương lúc nào cũng bận rộn đi gặp khách hàng, không có thì giờ đi đón vợ trở về từ tiểu bang Pennsylvania sau bốn tháng đi tu nghiệp chuyên sâu về bác sĩ nhi đồng.
Nhạc sĩ Cung Tiến